VÌ SAO TÔI VIẾT QUYỂN SÁCH
NƯỚC ĐỨC THẾ KỶ XIX?
Nguyễn Xuân Xanh (2017)
Lời nói đầu. Sáng chủ nhật, ngày 1 tháng 10, năm 2017, đã diễn ra tại Khách sạn REX lễ công bố kết quả bình chọn của Giải Sách Hay rất trang trọng. Quyển sách Nước Đức Thế Kỷ XIX. Cuộc cách mạng Giáo dục, Khoa học và Công nghiệp đã được chọn cho Giải Sách Hay, hạng mục Giáo dục. Dưới đây là bài phát biểu của tác giả tại buổi lễ. Nguyễn Xuân Xanh
(Xem thêm:Nước Đức thế kỷ XIX tái bản lần IV có gì mới?)
Khoảng 2004, Viện Goethe tại TP đã bắt đầu tổ chức Triển lãm các Đại học Đức nhằm quảng bá du học đang lên ở Việt Nam. Tôi nghĩ, để một người trẻ có thêm thông tin để định hướng sự ham thích của mình, tôi cần viết về những truyền thống tốt đẹp của Đức trong những lãnh vực khoa học, công nghệ và giáo dục. Tôi chọn thế kỷ 19, vì đây là thế kỷ của cuộc cách mạng công nghiệp trên phạm vi thế giới, và nước Đức có những đóng góp hết sức đặc biệt. Hiểu nước Đức thế kỷ 19 giúp hiểu nước Đức thế kỷ 20 hơn. Quyển sách lần đầu tiên được Trung tâm VAPEC, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, và nxb Tổng hợp Thành phố HCM xuất bản năm 2004, với sự tài trợ của Tổng Lãnh Sự Quán Đức. Đó là quyển sách đầu tay của tôi 13 năm trước.
Ngay sau đó sách được tái bản một lần. Rồi trước đợt sóng những đề tài mới thời sự dâng lên từ 2005 trở đi: Einstein, các số kỷ yếu liên tiếp kỷ niệm các nhà khoa học hay những sự kiện khoa học lịch sử quan trọng, như GS Hoàng Tụy 80 tuổi (trước đó GS Đặng Đình Áng 80 tuổi), Max Planck, Galilei & Thiên văn học, Darwin & Thuyết tiến hóa, ĐH Humboldt 200 năm, Hạt HIGGS, thì quyển sách Nước Đức dần dần tưởng như bị rơi vào quên lãng. Cho đến một ngày của năm 2016, Cty sách ZENBOOK đề nghị tái bản trước sự ngạc nhiên và vui mừng của tôi. Tôi rất cám ơn lãnh đạo của ZENBOOK sau hơn 10 năm vẫn còn tình yêu đối với quyển sách.
Nhiều người ngưỡng mộ cuộc lội ngược dòng của đội bóng Đức giành lấy chiếc cúp vô địch thế giới năm 1954 tại Bern một cách kịch tính như một điều huyền diệu, nhưng ít người biết đến cuộc lội ngược dòng lịch sử của cả dân tộc Đức trong cả thế kỷ 19, trong những điều kiện vô vàn khó khăn, để từ một đất nước rách nát, lạc hậu, bị thua trận tủi nhục để tiến lên ngôi thứ của một cường quốc hàng đầu châu Âu, một sự kiện còn kịch tính và huyền diệu hơn gấp vạn lần. Thế kỷ 19 là thế kỷ “big bang” của Đức. Sự thất trận chua cay trước Napoleon đã đánh thức hoàn toàn tinh thần yêu nước của dân tộc Đức, nhất là giới tinh hoa, và đánh thức thiên tài của dân tộc này từ chiều sâu của nó trỗi dậy sau bao nhiêu năm xếp lại đôi cánh, sống bó mình trong những quan hệ bẩn chật.
Trong các cuộc cách mạng công nghiệp của thế kỷ 19, từ các quốc gia lục địa, đến Hoa Kỳ, rồi cuối cùng là Nhật Bản, thì cuộc cách mạng của Đức là ấn tượng nhất. Hồi đó, không hề có FDI hay ODA, mà hoàn toàn tự lực cánh sinh. Nhưng trong khi các cuộc cách mạng công nghiệp tại Hoa Kỳ và Nhật Bản diễn ra để phục vụ phát triển kinh tế là chủ yếu, thì cuộc cách mạng Đức đi xa hơn: Cách mạng khoa học và giáo dục, đem lại những cống hiến lâu dài cho nhân loại. Đại học Đức, hay Humboldt, trở thành mô hình đại học nghiên cứu cho toàn thế giới. Học giả Đức trở thành những mẫu mực thế giới. Thành quả khoa học của họ được vinh danh rõ nhất vào đầu thế kỷ 20, khi Giải Nobel bắt đầu có hiệu lực, Đức nhận được mỗi năm mỗi giải, điều đó kéo dài hơn 30 năm, một hiện tượng chưa từng có, cho đến khi Hitler người hủy diệt lên nắm quyền.
Đằng sau những thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục, những lãnh vực nước Đức đã làm nên những kỳ tích, là cuộc lội ngược dòng đáng khâm phục về kinh tế, như một mô hình độc đáo của cuộc vươn lên ấn tượng. Đức, trong tình trạng lạc hậu của mình, đã có tham vọng lớn cùng một lúc thực hiện ba nhiệm vụ chiến lược liên kết nhau: Cách mạng công nghiệp, cách mạng giáo dục và cách mạng khoa học. Để làm những điều đó, Phổ tiến hành cởi trói nông dân khỏi chế độ nông nô để họ trở thành những công dân tự chủ; cởi trói doanh nhân, công nhận quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh; thiết lập bộ máy hành chánh mới hợp lý để phục vụ công cuộc đổi mới; cải tổ giáo dục toàn dân, phát triển giáo dục đại học lên tầm cao, biến đại học thành những trung tâm nghiên cứu và học thuật hàng đầu thế giới; thống nhất hơn 350 tiểu vương quốc Đức; tiến hành công nghiệp hóa, xây dựng hệ thống đường sắt khắp nước như đầu tàu kinh tế, từng bước tự chế tạo máy, và công cụ, là những thứ thuộc về nền tảng của công nghiệp hóa; phát triển tiềm năng lớn nhất là “vốn trí tuệ” (capital of mind) như nhà kinh tế Friedrich List của Đức nói. Phải tiến lên công nghiệp hóa đất nước, đó là mệnh lệnh, bởi vì công nghiệp, industry, mới là sức bật của kinh tế, chứ không phải nông nghiệp hay thương mại. Tăng trưởng công nghệ là nguyên cớ chính của tăng trưởng kinh tế. Không có tăng trưởng công nghệ, kinh tế sẽ sa vào bãi lầy của sự trì trệ.
Ngoài đại học tinh hoa ra, Đức còn có các trường nghề nổi tiếng tốt nhất và hiệu quả nhất thế giới để chuẩn bị nghề nghiệp về kỹ thuật, công nghiệp lẫn thương mại, giáo dục về trách nhiệm và tinh thần tự lực của những tác nhân mới, và giáo dục về nhân cách. Peter Beuth là người được giao cho nhiệm vụ chiến lược này. Các trường nghề chuẩn bị cho các nhà kinh doanh sản xuất một tư thế mới trong cuộc cạnh tranh quốc tế. Sản phẩm không những phải có hàm lượng kỹ thuật mà còn có nét mỹ thuật.
Vì sao nước Đức lại có những thành tựu vĩ đại như thế? Trên hết, từ thế kỷ 18, họ đã là Quốc gia văn hóa, Kulturnation, trước khi là Quốc gia chính trị năm 1871. Weimar được ví là Athens, với Goethe, Schiller, và Đức được ví như một Hy Lạp. Trong cơn hoạn nạn, sự “thăng tiến tinh thần là chính” (Aufschwung des Geistes) như Fichte nói. Cho nên phải đặt giáo dục lên làm nhiệm vụ hàng đầu. Đức, tượng trưng là Phổ, vương quốc lớn và mạnh nhất, là một dân tộc của các chiến binh luôn luôn chinh chiến, nhưng khi giờ lịch sử điểm, thì giới tinh hoa đã chọn mô hình của Hy Lạp để phát triển chứ không phải La Mã. Vì Hy Lạp mới là dân tộc tạo ra khoa học và văn hóa cho thế giới, biểu tượng của sự phát triển toàn diện con người, theo đúng kỳ vọng của những nhà tân nhân văn Đức như Goethe, Schiller, Humboldt. Con người không phải chỉ là công cụ, mà là cứu cánh tự nó, với những giá trị thiên phú thiêng liêng của nó. Cho nên tự học để trau dồi và tinh luyện là nhiệm vụ suốt đời. Đó là nhiệm vụ của giáo dục theo tinh thần tân nhân văn. Phát triển kinh tế với tư cách là những con người có văn hóa, không phải con người thuần kinh tế, phải vượt khỏi những lợi ích trước mắt của Khai sáng. Họ xây dựng các trường trung học nhân văn, và các đại học bác học, mục đích là khám phá và rèn luyện tính cách con người không giới hạn. Họ xem khoa học là cái không bao giờ kết thúc, mà phải tiếp tục nghiên cứu, khám phá. Và như một hệ quả, Đại học và Khoa học trở thành “bá chủ” trong học thuật như Anh từng là bá chủ trên biển. Và từ giữa thế kỷ 19 trở đi, Khoa học cơ bản đã “tham chiến” vào công cuộc công nghiệp hóa, tạo nên những bứt phá ngạc nhiên, đưa nước Đức lên hàng cường quốc.
Tấm gương Đức cho thấy, văn hóa có sức mạnh vực dậy một nền kinh tế lạc hậu, và cho nó thêm tầm vóc xứng đáng với tầm vóc của văn hóa. Và chính văn hóa đã cứu lấy chính trị. [Nhưng cũng tiếc thay, sau này chính chính trị đã phá hỏng nền văn hóa Đức, điều mà Nietzsche đã thấy trước, từ những chiến thắng quân sự của họ, rồi đi đến chỗ sụp đổ đầu thế kỷ 20.]
Đứng trước cuộc cách mạng Pháp đổ máu, giới tinh hoa Đức chọn văn hóa và quay về thế giới tinh thần, rèn luyện tính cách. Phải chăng đó chính là điều mà nhà cải cách Phan Châu Trinh đầu thế kỷ 20 đã chủ trương để phát triển nội lực bằng việc cải thiện văn hóa? Phải chăng thế giới con người Việt Nam vẫn còn là thế giới đóng kín, như nhà khai sáng Phan Châu Trinh nhìn thấy từ chiều sâu của nó, cần được khai hoang và vun xới rất nhiều, bằng văn hóa, để con người có sức mạnh thực sự và làm chủ đời mình, và làm chủ vận mệnh đất nước? Nếu không có những sức mạnh cá nhân đó, thì quốc gia cũng không có sức mạnh quốc gia để tồn tại và độc lập. Với cái lỗ hổng văn hóa đó, không thể đấu tranh giành độc lập thắng lợi, lại càng không thể đấu tranh vũ trang, trừ khi vay mượn ngoại lực.
Chúng ta có thể học hỏi và tham khảo mô hình phát triển Đức được không, khi mà Nhật Bản Minh Trị đã từng nhìn thấy trong đó một mô hình phát triển cho chính mình? TS Lê Đăng Doanh, và nhà nghiên cứu Nguyễn Trung cho rằng nước Đức thế kỷ 19 là tấm gương rất đáng học hỏi trong việc xây dựng nền giáo dục, khoa học, và thực hiện công cuộc công nghiệp hóa.
Chúng ta mãi mãi sẽ yếu đuối và nhược tiểu nếu không phát triển công nghệ và khoa học, không tổ chức lại quốc gia hợp lý, không đoàn kết, hỗ trợ và công bằng với nhau, không phát triển một nền văn hóa có tính khai sáng, không có một niềm tin vào khoa học, giáo dục để đổi đời, không có những đại công ty như Siemens, Krupp, Thyssen, Bayer, những “tiền thân” của các zaibatzu của Nhật Bản, hay chaebol của Hàn Quốc sau này. Nếu ví thương trường là chiến trường thì các tướng lãnh chỉ huy không thể nào cứ từ chối sử dụng thuốc súng để vẫn xài cung tên mà có thể hy vọng chiến thắng và tồn tại được.
Chúng ta phải đoàn kết, đặt quyền lợi tối thượng quốc gia lên trên hết, không để những lợi ích cục bộ chống lại chính chúng ta. “Một căn nhà tự chia cắt chống lại nó không thể nào đứng vững”, như Abraham Lincoln nói trong đêm trước của cuộc nội chiến nước Mỹ. Hoặc chúng ta thành công hết, hoặc thất bại hết, không phải từ ai cả, mà từ chính chúng ta.
Chúng ta phải thay đổi, thay đổi một cách toàn diện, và tấm gương lịch sử của dân tộc Đức là rất cần được tham khảo cho những ai quan tâm đến tiền đồ của dân tộc.
Nguyễn Xuân Xanh
30 tháng 9, 2017