SỰ HỌC CỦA HAI ÔNG ĐỒ XỨ NGHỆ
(Câu chuyện về tình bạn của các ông Nguyễn Xiển – Hoàng Xuân Hãn qua lời kể của ông Xiển, lược trích trong cuốn “Giáo sư Nguyễn Xiển – Cuộc đời và sự nghiệp”. Dành cho người đọc chậm!)
Trong một buổi đầu xuân, khi nhắc lại chuyện cũ, ông Xiển đọc bức thư đề ngày 20/12/1985 của học giả Hoàng Xuân Hãn từ Paris gửi về, sau hơn bốn năm xa cách. Bức thư của người bạn già mà tình rất trẻ nhắc đến thuở cùng nhau còn là những học trò xuất sắc của Quốc học Vinh, ra Hà Nội cùng đỗ tú tài Tây, rồi qua Pháp đỗ mấy bằng cử nhân một lúc… “Nhớ lại hồi mới đỗ tú tài rồi chúng mình về Nghệ: Xiển, Định, Tỷ và tôi. Các quan tỉnh Nghệ An bấy giờ đều người khoa cử xưa có tiếng hay chữ. Tổng đốc Phạm Liệu và Án sát Nguyễn Khắc Niêm (thân sinh bác sĩ Nguyễn Khắc Viện) có mừng chung một câu đối. Tôi còn nhở lõm bõm. Có chữ hơi ngờ. Không biết Xiển còn nhớ không? Câu đối ấy hầu như thành câu đối với Xiển. Nếu Xiển đã quên thì tôi nhắc lại để làm vui và để Xiển có viết làm câu đối Tết”.

Câu đối rằng: 
Hồng Lam chung dục tự cổ đa tài, diễm đạo tân khoa quy cựu phiệt; 

Âu Á văn minh, cổ kim đồng hoá, giao tương xích xí dẫn thanh niên. 
(Có người dịch: Hồng lam muôn thuở đúc anh tài, người đẹp nền xưa treo bảng mới; Âu Á văn minh, mùa hợp quý, khiến giương cờ đỏ dẫn đầu xanh). Ông Xiển nói: “Trong tư tưởng của các cụ thì “xích xí” (cờ đỏ) hàm ý phải học cho giỏi; còn với chúng tôi thì “cờ đỏ” là cách mạng. Anh Hãn cũng cho rằng câu đó ứng với việc tôi tham gia cách mạng và kháng chiến”.

^^^
“… Qua một kỳ thi tuyển, tôi vào học khoá Hai trường Quốc học Vinh trong bốn năm 1921 – 1925. Ở Trung kỳ, trường Quốc học Vinh thành lập năm 1920, sau trường Quốc học Huế thành lập 1896. Trường mới lập, số học sinh ít, nên giữa khoá trước khoá sau vẫn kết bạn chơi với nhau, học tập lẫn nhau, ít phân biệt. Vì vậy tôi được quen biết các anh lớp trên, còn bạn bè cùng lớp cùng khoá với tôi thì có các anh Hà Huy Giáp, Nguyễn Kim Cương, Trần Văn Thụy, Phan Trọng Bình, Phan Tử Dương, Vũ Đình Cán… Trong số học sinh khoá ba, nổi bật nhất là anh Hoàng Xuân Hãn.
Ở trường Quốc học Vinh, tôi may mắn không những có nhiều bạn học giỏi và còn gặp được một số thầy dạy vững vàng, tận tuỵ, tiêu biểu nhất là thầy Lê Thước. Thầy là người kiêm cả tân học và cựu học, đỗ Giải nguyên khoa thi Hương cuối cùng của trường Nghệ, tốt nghiệp trường Quốc học Huế, được đào tạo tại trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội rồi được bổ về chuyên giảng dạy Pháp văn, Việt văn và lịch sử. Thầy thuộc một dòng họ nhà vua huyện Đức Thọ, sinh trưởng trên đất La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, vốn là vùng ở ẩn của Nguyễn Thiếp, là chiến khu của Phan Đình Phùng, Lê Ninh… Cậu ruột thầy là Giải nguyên Lê Văn Huân, bị đế quốc đầy đi Côn Đảo và đã chết như một liệt sĩ của phong trào chống Pháp. Cho nên không phải ngẫu nhiên bản luận án tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm của thầy Lê Thước về đề tài Hán học ở Việt Nam đã sớm đặt vấn đề ý thức dân tộc trong lịch sử nước ta từ thời đại Lý Cần Lý Tiến. Càng không phải ngẫu nhiên việc  việc thầy thiết tha giáo dục lòng yêu nước yêu quốc văn cho lớp thanh niên chúng tôi…
Trong hoàn cảnh thực dân Pháp mở trường để đào tạo những viên chức tay sai ngoan ngoãn, thầy đã tận dụng số giờ dạy Việt văn và lịch sử ít ỏi, nhen nhóm và bồi dưỡng cho chúng tôi tinh thần dân tộc. Thầy luôn nhắc nhở học sinh: “làm người phải yêu nước, yêu nước thì phải yêu quốc văn”. Giáo trình lịch sử nước ta qua các cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống ngoại xâm, qua tiểu sử các bậc anh hùng dân tộc, đối với thầy Lê Thước trước hết là những cơ hội tốt để giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc cho lớp trẻ. Dạy quốc văn, thầy dẫn dắt học sinh biết quý trọng tiếng ta, quý trọng các di sản văn học nước nhà. Anh em học sinh trường Vinh thời ấy đua nhau học thuộc lòng Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Lục Văn Tiên, thơ Hồ Xuân Hương và Nguyễn Công Trứ, cho đến thơ văn yêu nước mới nhất của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, cả các bài vè dân gian chống Pháp ở Nghệ Tĩnh.
Dạy Pháp văn, thầy Lê Thước động viên học sinh phải giỏi tiếng Pháp không kém gì người Pháp, đồng thời tìm cách vận dụng nội dung chương trình vào những mục đích giáo dục của thầy. Học trò cũ của thầy ai nấy đều ghi nhớ mãi bài văn lâm li thống thiết Buổi học cuối cùng cùa Alphonse Daudet với câu kết luận: “Khi một dân tộc bị mất nước còn giữ được tiếng nói của mình là dân tộc ấy đã nắm chắc trong tay cái chìa khoá để tự giải phóng mình”. Ra đề luận tiếng Pháp, thầy thường lấy đề tài từ sinh hoạt và lịch sử đất nước. Tôi còn nhớ mình đã phải mất nhiều công sức thời bấy giờ mới kiếm đủ vốn từ vựng miêu tả các chi tiết một buổi tế lễ ở Văn miếu hàng tỉnh dựng ở làng tôi. Và học theo sự hướng dẫn của thầy, tôi đã có thể viết một bài luận Pháp văn vào cuối năm lớp đệ tam kể về sự nghiệp của Lê Thánh Tông. Khi dạy sử Pháp, thầy cũng nhấn mạnh đến tác động của Montesquieu, Rousseau, Voltaire, đến các tư tưởng tiến bộ của Cách mạng tư sản dân chủ Pháp năm 1789. Phương pháp dạy học của thầy Lê Thước cũng là một bước ngoặt mới mẻ so với lối “nhồi kinh nấu sử”, “xướng vịnh ngâm nga” của các thầy đồ nho cựu học. Các bài giảng của thầy bao giờ cũng sinh động, cụ thể. Thầy còn chỉ đạo anh em học sinh lập lấy thư viện nhà trường, hoạt động thể dục thể thao, đi thăm di tích lịch sử, sưu tầm vốn văn học dân gian. Riêng đối với tôi, thầy có lời khuyên mà tôi đã cố gắng nghe và làm theo, đó là ngoài bài vở ở lớp, về nhà phải chịu khó tự học, đọc thêm, ghi chép tóm tắt và suy nghĩ mở rộng.
Sự phát triển nhân cách, tình cảm, tư duy của tôi là theo kiểu đạo đức Khổng Mạnh, tinh thần yêu nước của cha ông. Ông nội tôi tham gia cần Vương, bố tôi cảm tình với Văn Thân nên mất chức, tôi vừa đầy tháng thì ông dượng Ngô Đức Kế bị đầy Côn Lôn. Tự hào về quê hương: quê nội là một vùng cách mạng với Làng Đỏ, Trường Thi, quê ngoại Kim Liên, Nam Đàn cùng quê với Bác Hồ. Đi học, gặp được thầy được bạn. Vào Quốc học Vinh, tiếp thụ được truyền thông yêu nước, tư tưởng cách tân Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trường Tộ… Được thầy Lê Thước luôn luôn khuyên răn “học khoa học cho bằng người ta”…

^^^
Sau khi thi viết đạt điểm xuất sắc ở Vinh tôi và 19 bạn phải thi diplôme vấn đáp ở Huế, đó là chuyến đi xa đầu tiên và rất đáng nhớ. Có một sự “ganh đua” lành mạnh giữa Quốc học Vinh và Quốc học Huế, để xem người đỗ đầu là đại biểu trường nào. Đoàn Vinh đặt mọi hy vọng lên tôi, nhưng không ngờ khi bị hỏi về toán vốn là môn sở trường nhất của mình tôi bị một thầy giáo trẻ người Pháp của trường Huế vặn vẹo về phép tính log – một điều chúng tôi không được dạy dỗ đến nơi ở trường Vinh. Thế là kỳ thi ấy với tôi tuy dễ nhưng xếp hàng thứ tư, mất chức “thủ khoa” được xem như cầm chắc trong tầm tay. Các bạn giỏi chữ nho đã an ủi tôi bằng câu “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”. Khoa thi diplôme năm ấy, một học sinh Huế người gốc  Nghệ An là anh Nguyễn Văn Định đỗ đầu bảng. Khoa sau đến lượt anh Hoàng Xuân Hãn giật về cho trường Quốc học Vinh cái vinh dự có học sinh đỗ đầu xứ Trung kỳ.
… Năm 1925, tôi ra học năm thứ nhất trung học ở trường Bưởi với một sự hy sinh, cố gắng rất cao của gia đình cho tôi mọi mặt. Anh Hãn ra Hà Nội sau tôi một năm, cũng vào trường Bưởi nhưng rồi lại chuyển qua học chuyên toán bên trường Albert Sarraut (anh Hãn may mắn hơn tôi là được học bổng vào Sarraut từ năm 1925-1926) . Mùa xuân năm 1926, có cuộc vận động học sinh để tang cụ Phan Chu Trinh mất vào ngày 24 tháng Ba năm ấy. Học trò trường Bưởi mang băng tang đen trên cánh tay kéo nhau ra khỏi trường đi dự lễ truy điệu ở một số chùa ngoại thành. Tôi còn nhớ là mình đã cùng bạn bè hô to khẩu hiệu của Danton thời Cách mạng Pháp: “Táo bạo! Táo bạo nữa! Táo bạo mãi! “. Các nhà chức trách hoảng sợ thẳng tay trừng trị những học sinh tham gia cuộc đấu tranh này. Các anh lớp trên trong đó có anh Phạm Văn Đồng, bị coi là đầu têu, bị đuổi học, cấm không được học hành thi cử gì nữa, nên phần lớn ra làm cách mạng. Còn một số chúng tôi vì tội bãi khoá cũng bị đuổi học, nhưng chỉ bị cấm dự thi tú tài bản xứ. Chúng tôi ức quá, bàn nhau tự học để quyết thi đỗ tú tài Tây mà luật lệ không cấm các thí sinh tự do.
Phải nói rằng tự học là điều rất gian khổ vất vả. Vì phải đề phòng sẽ bị làm khó dễ không những bởi tư cách thí sinh tự do, mà còn bởi đã bị ghi vào sổ đen là học sinh trường Bưởi từng tham gia bãi khoá, sẽ bị xét nét khó hơn hẳn … Thi cùng con Tây ở Albert Sarraut. Nhưng để có tiền học thi tú tài tây, tôi phải đi học trường Công chính; mỗi tháng được trợ cấp (allocation) 8 đồng bạc Đông Dương. Bấy giờ tiền ăn đã mất từ ba đến bốn đồng một tháng, lại còn phải dành tiền mua sách về học. Mà thí sinh tự do vào thi tú tài tây là rất khó. Mỗi ngày phải học tới 14-15 tiếng, học ngoài chương trình nữa. Hiệu trưởng trường Công chính lúc ấy là kỹ sư Bergues sắp về hưu, đang viết một cuốn sách luyện toán cho thí sinh tú tài, Ông ta ra những đề toán khó nhưng tôi làm được cả. Túm được tôi, ông ta khai thác, ông ta đưa học trò đi tham quan lò gạch cầu Đuống, về làm luận. Bài của tôi có câu: “Trẻ con đi làm ở đây 8, 9, 10 giờ mà lương chỉ có mấy xu, nên không lấy gì làm lạ vì sao lại xuất hiện những tư tưởng đấu tranh chống bóc lột”. Viết ra như thế rất dễ bị Tây tuổi, nhưng lão hiệu trưởng lại đang thích tôi nên không báo cáo lên trên. Trong kỳ thi tú tài Tây năm 1928, Brachet đã cho tôi điểm cao nhất về toán, môn vật lý tôi cũng đạt điểm cao. Do vậy tôi được lấy đỗ đầu kỳ thi này với mention bien (hạng ưu) trên cả anh Hoàng Xuân Hãn – học trò xuất sắc nhất của Lycée Albert Sarraut. Đây cũng là một cách “gỡ hòa” của tôi trong cuộc đua học vấn với người bạn Hãn, là thành quả chứng tỏ tính quật khởi của học trò xứ Nghệ sau khi bị cản trở trên con đường thông thường thi lấy bằng tú tài bản xứ. Lại rất khoái là đám bãi khoá chúng tôi đều đỗ cả…
… Chẳng riêng gì tôi đạt kết quả thi cử xuất sắc, tôi còn nhớ vào thời ấy, anh Tạ Quang Bửu học sau tôi vài năm đã đỗ cả ba bằng tú tài: đỗ đầu tú tài bản xứ, đỗ đầu tú tài Tây ban toán rồi đỗ đầu tú tài Tây ban triết học. Thành tích ấy thể hiện xu hướng bách khoa mà anh sẽ phát triển về sau. Trước đó có anh Đặng Phúc Thông đoạt giải trong kỳ thi đấu tài, giống như thi học sinh giỏi của ta ngày nay, giữa các trường trung học toàn nước Pháp và hải ngoại.
…Pháp cho đưa Vĩnh Thụy sang Pháp học… Do đó, bốn người đỗ tú tài Tây năm 1928, quê ở Nghệ Tĩnh là Nguyễn Văn Định, Hoàng Xuân Hán, Trần Văn Tỷ và tôi, được chọn đi đợt đầu. Chúng tôi đi được còn vì có phần giúp đỡ của tổng đốc Nghệ An Phạm Liệu và án sát Nguyễn Khắc Niêm, hai nhà đại khoa biết gia đình chúng tôi và vốn quý các học trò giỏi. Trong bốn người, anh Hoàng Xuân Hãn là hoc sinh trường trung học  Albert Sarraut đã được học bổng của Chính phủ Đông Dương. Ba người còn lại là học sính bãi khóa cũ của trường Bưởi. Hai quan đầu tỉnh đã trực tiếp kêu nài công sứ đương thời tên là Marty – sau này làm Chánh mật thám Đông Dương, để ba người học trò bãi khóa này cũng được hưởng học bổng. Cuối cùng Marty cũng phải chấp thuận. Chắc là y cũng nghĩ như nhiều quan chức thực dân Pháp lúc đó là  cần chọn người giỏi để đào tạo làm tay sai đắc lực cho chúng. Chúng tin rằng ai cũng sẽ quy phục sức mạnh vật chất và văn hoá của đế quốc Đại Pháp. Nhưng sau này ngược lại, chúng mới biết là chúng lầm, chịu lỗ vốn. Chính chúng đã buộc phải thừa nhận rằng con đường đưa thanh niên thuộc địa sang Pháp học lại là con đường dẫn những người ưu tú trong bọn họ chống lại chủ nghĩa thực dân. Về phần mình, hai ông Phạm Liệu và Nguyễn Khắc Niêm cũng rất tự hào về bốn người học trò giỏi xứ Nghệ, địa hạt dưới quyền hai ông cai quản, nên đã theo phong tục các kỳ thi hương cũ mà tặng cho chúng tôi câu đối viết trên giấy hồng điều mà anh hãn đã nhắc tới trong thư… 

^^^
Thế là tôi gặp được cơ may sang Pháp du học, một cơ may hết sức hiếm hoi thời đó. Vấn đề là học cái gì? Lúc đầu tôi có ý định đi Pháp học về thực nghiệp. Đó là lời khuyên thanh niên ta của dượng tôi là cụ nghè Ngô Đức Kế trước đó. Động cơ học tập của tôi ban đầu luôn kèm theo mục tiêu kiếm sống nữa. 

Ngày thi tú tài ở trường Albeit Sarraut, Trần Văn Tỷ và tôi được đọc một pancarte quảng cáo cho Viện kỹ thuật cơ điện thực hành ở Toulouse. Chúng tôi liền xin sang học tại đó, nhất là ở Toulouse vừa đỡ rét vừa rẻ hơn Paris Học bổng của chúng tôi một năm được có mười nghìn franc chỉ đủ tiền ăn ở, chứ tiền học, may sắm áo quần vẫn phải dựa vào gia đình gửi cấp thêm. Chỉ có con, cháu các gia đình điền chủ lớn và có nhiều thế lực như họ Hồ Đắc ở Huế, mới đủ sức sài sang, sống ở thủ đô Paris. Anh Hoàng Xuân Hãn được nửa học bổng của Như Tây du học, lại được hưởng thêm học bổng toàn phần của toàn quyền Đông Dương, nên đã có thể học ở Paris. Sau khi theo một lớp học toán đặc biệt tại một lycée chuyên luyện thi vào các trường lớn, anh xin thi vào hai trường đại học có tiếng thi tuyển khắt khe nhất: Trường Cao đẳng Sư phạm và trường Bách khoa Paris. Và anh là người Việt Nam đầu tiên đã trúng tuyển vào cả hai trường. Nhưng năm 32-34 anh lại học tiếp và học rất xuất sắc tại trường Cầu đường Paris.
Năm đầu ở Toulouse, nhà trường lấy làm phục kết quả học tập lý thuyết của hai chúng tôi. Đến khi bắt đầu chuyển qua học thực hành, tôi cảm thấy mình không có sở trường, tay chân lóng ngóng khi đụng vào máy móc, nên không theo học về kỹ thuật nữa mà sang học khoa học cơ bản, chủ yếu là toán học ở Trường đại học tổng hợp Toulouse. Còn lại anh Trần Văn Tỷ, người huyện Nghi Lộc cùng tỉnh với tôi, tiếp tục học kỹ thuật, học rất giỏi về chuyên ngành thủy điện, cuối khoá được thưởng Huy chương vàng. Khi đi thực tập ỏ vùng núi Pyrenees, do phổi yếu anh bị lạnh ốm đã được nhà trường chăm sóc chu đáo. Rất tiếc là học xong về nước anh mắc chứng lao sớm và mất ở Huế.
Thực tế cho tôi thấy rõ đỗ kỹ sư trở về nước nếu ít thế lực cũng không dễ xin việc như lúc đầu tôi tưởng, trái lại khoa học cơ bản có thể giúp dạy học trong khi chờ đợi tìm được việc làm mong muốn. Nhưng phải nói nguyên nhân chính của việc tôi chuyến ngành học vào năm 1930 là niềm say mê của tôi đi vào toán học. Nhất là bấy giờ đang có sự hấp dẫn của nhiều học thuyết khoa học mới như hình học phi Euclide, thuyết tương đối của Einstein. Khi tôi học toán ở Toulouse, lớp có hai thầy, một ông thì ủng hộ thuyết tương đối, còn ông kia chống, gây nên không khí tranh luận khoa học hết sức sôi nổi, lôi cuốn. Hai thầy đều có lòng tốt muốn tác thành cho tôi, một học sinh thuộc địa vào bậc xuất sắc nhất của trường. Đi sâu vào nghiên cứu, tôi lại cảm thấy mình chạy theo học thuyết mới mà chưa thuần thục về toán học kinh điển, nhất là về môn giải tích, thì khó tìm ra đề tài luận án có thể hoàn thành trong vài năm. Tôi được giới thiệu lên học bổ túc sáu tháng ở Viện toán Henri Poincarré trên Paris vào năm 1931, nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Frechet. Khi tôi đến nghe giảng thuyết xác suất của E.Borel, tôi gặp lại Brachet đã trở thành tổng thanh tra học chính Đông Dương, ông ta cũng về dự thính. Tôi đã cho Brachet mượn phần ghi chép của tôi tự soạn lại thành một giáo trình có hệ thống. Tôi còn tranh thủ tới dự các buổi séminaire của Elie Cartan ở College de France. Có thể nói, tôi ham học và không để lỡ một cơ hội mở rộng kiến thức nào.
Sau gần một năm lao vào phương trình Fredhom là nền tảng của môn toán – vật lý hiện đại, tôi tính toán thấy không đủ thời giờ làm xong luận án. Cho nên trước khi về nước tôi trở lại Toulouse bảo vệ một báo cáo khoa học nhan đề là Tính tích vi gần đúng bằng các tính phỏng liên tục. Sau này nghĩ lại thấy mình đã rất gần gũi với phép biện chứng trên lĩnh vực lô-gíc toán hoc. Báo cáo khoa học đó được coi là tương đương luận án toán học cao cấp về thuyết tích phân gần đúng mà Giáo sư Bulh đã dành cả một số tập san Mémorial des mathématiques giới thiệu các thành tựu của các nhà toán học Nga là những người đã cống hiến phần to lớn hơn cả phần sư tử theo cách nói của Giáo sư Bulh vào đó. Tuy nhiên tôi thấy mình còn có những hạn chế. Tôi cũng chỉ mới đứng ở ngưỡng cửa của bước ngoặt đổi mới tư duy toán học.
Anh Tạ Quang Bửu sang Pháp đã học lớp toán đặc biệt chuẩn bị thi vào một trường kỹ thuật lớn thì không may bị tai nạn giao thông phải xuống Bordeaux học khoa cơ bản, rồi sau một thời gian sang Anh học tiếng Anh ở trường đại học Oxford. Anh cũng như tôi phải bỏ dở việc nghiên cứu về nước kiếm việc làm. Nói như vậy để biết con đường nghiên cứu khoa học rất lâu dài công phu, một anh trí thức xứ thuộc địa dù có chí, có tài đến đâu cũng khó có điều kiện theo đuổi đến nơi đến chốn. Nhất là chính sách bảo thủ của thực dân Pháp hồi ấy chỉ đào tạo cho Đông Dương một số trí thức “tầm thường”, một trình độ đại học “ngang bằng mặt phẳng”, hơn là muốn đất nước dưới ách thống trị của chúng có được những trí thức mũi nhọn có tầm cỡ, có khả năng chiếm lĩnh những đĩnh cao khoa học. Một đất nước hoàn toàn độc lập tự do mới mở ra cho trí thức những con đường học tập nghiên cứu trọn vẹn.

Tháng Tám 1932, anh tôi mất, tôi phải về nước tìm cách giúp đỡ gia đình đã kiệt quệ và chăm sóc cha mẹ già yếu.
Anh Tạ Quang Bửu cũng như tôi và nhiều bạn khác không nhận làm quan với Bảo Đại. Anh vào Huế dạy học ở một trường tư, đồng thời làm trợ lý kỹ thuật cho nhà máy điện Huế.

Còn tôi ra Hà Nội, xu hướng của một trí thức tự do cũng làm tôi chọn nghề dạy học trường tư. Phải cùng một lúc dạy học ở nhiều trường mới đủ sống nên tôi đã dạy ở các trường Thăng Long, Gia Long và Hồng Bàng. Tất cả đều là trường tư thục. Đó là vào những năm 1933 – 1935. (Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám…). Năm 1935, vào dạy ban tú tài bản xứ ở Bưởi (Cùng dạy với anh ở Bưởi bấy giờ, có các bạn cũ như Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Hãn…) 
Một lần gặp lại Brachet làm Tổng thanh tra học chính Đông Dương đến kiểm tra trường lớp, Brachet hỏi tôi với ý cho tôi hẳn là vừa lòng với công việc. Hiệu trưởng của trường là Autigeon đi theo khen là “bonne acquisition”. Tôi đã trả lời thẳng: “Ưne bonne acquisition mais… à bon marché”. (một thu nhận tốt nhưng… rẻ quá). Brachét có vẻ không bằng lòng. Tôi phải nói thêm năm 1937 Chính phủ Mặt trận bình dân bên Pháp mở cửa một số trường chuyên môn riêng cho người pháp, người Việt Nam có bằng đại học có thể tham gia. Chính Brachet đã giới thiệu tôi sang ngạch kỹ sư khí tượng Đông Dương được trả lương gấp ba lần giáo sư cử nhân bán xứ.
Vì kinh tế gia đình, tôi nhận việc ở ngành khí tượng làm tập sự dự báo viên ở đài thiên văn khí tượng Phủ Liễn (Kiên An) nửa năm 1937 rồi chuyển vào Sài Gòn làm việc những năm 1938 – 1941. Hay qua lại với vợ chồng bác sĩ Phan Anh. Tôi có chú ý tìm các anh Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Long quen biết từ thời du học bên Pháp, nhưng không được gặp lại.
… Khi về Kiến An, tôi được mời làm Hội trưởng Tỉnh hội Truyền bá quốc ngữ ở đây. …Tôi có dịp thường xuyên liên hệ với Hội Truyền bá quốc ngữ thành phố Hải Phòng nhà tư sản dân tộc Nguyễn Sơn Hà, luật sư Vũ Trọng Khánh, nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo đứng đầu. Tôi tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ chủ yếu lúc đó mới trên ý thức góp phần nâng cao dân trí. Và cũng xuất phát từ ý thức ấy mà năm 1942 tôi có chân trong nhóm sáng lập báo Khoa học cùng với các anh Hoàng Xuân Hãn, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Đình Thụ, Ngụy Như Kon Tum. Từ năm 1936 anh Hoàng Xuân Hãn đã trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Tờ báo ấn bản lớn, phát hành khắp Đông Dương!
Khi ra báo, tôi vô cùng cảm động nhận được thư của thầy học cũ cổ vũ, trong đó có đoạn viết: “Nhân tài của nước ta còn ít, các bậc đại văn chương, đại học vấn chưa có đã đành, chỉ những bậc học rộng đậu cao như các ngài ở trong Ban biên tập báo Khoa học, tôi xem ra cũng còn hiếm lắm. Vậy các ngài có nhiệm vụ đem cái sở học mà truyền bá cho quốc dân được hưởng và cho bọn hậu tấn được noi theo, thì báo Khoa học chính là cái cơ quan để các ngài làm nhiệm vụ ấy, thật là một việc làm rất xứng đáng và rất hợp thời, Tôi chắc rằng báo ấy sẽ là cái bó đuốc sáng để dẫn đường chỉ lối cho quốc dân trong sự học thực dụng, vậy xin có lời mừng ngài và chúc cho báo Khoa học được trường thọ” (Lê Thước, Giáo sư Quốc học Vinh, 1942)….”

^^^
Năm 1941 hai người bạn Xiển và Hãn cùng nhau nghiên cứu về lịch và lịch Việt nam. Sau đó con đường của hai người bạn Xiển và Hãn lại tách ra. Trường Bưởi sơ tán về Thanh Hóa, ông Hãn bắt đầu nghiên cứu lịch sử, văn hóa, làm từ điển, tham gia giảng dạy cơ học trong Đại học Khoa học thành lập năm 1943. Năm 1945 ông bắt đầu bước vào chính trị, đích thân vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham gia chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Hoàng Xuân Hãn (cùng với Phan Anh, Vũ Văn Hiền…) tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng nhưng ông Hãn cũng kịp từ ngày 20 tháng 4 đến ngày 20 tháng 6 năm 1945 thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học, áp dụng việc học và thi Tú Tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, Hoàng Xuân Hãn trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt.
Các ông Đỗ Đức Dục, Vũ Đình Hoè lên Việt Bắc theo Việt Minh sớm, lúc này ông Xiển còn đang giữa ngã ba đường, nên về lại Đài thiên văn Phủ Liễn…, mỗi người một ngả nên tờ báo Khoa học phải giải tán. Ông Xiển bắt đầu tham gia chính trị sau cách mạng Tháng Tám, từ khi nhận lời mới của Hồ chủ tịch làm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ và đến năm 1946 làm Phó tổng thư ký Đảng Xã hội. Trong thời gian này ông Xiển còn sáng lập ra Ban Toán học thực nghiệm và trực tiếp phụ trách. Ông dành thì giờ biên soạn hai bộ giáo trình Toán học đại cương và Cơ học thuần lý. Để có tư liệu, ông đã sử dụng vốn liếng kiến thức vững chắc và phong phú của mình và còn được một số bạn bè ở Hà Nội tạm bị chiếm bí mật gửi cho sách chuyên môn bằng tiếng Pháp. Năm 1948, hai bộ giáo trình bậc Đại học đầu tiên bằng tiếng Việt ở nước ta được hoàn tất và in bằng li tô… 
Ông Xiển còn tổ chức học hàm thụ Toán học đại cương cho những người đã đỗ Tú tài thời Pháp thuộc hoặc Trung học chuyên khoa kháng chiến. Người học được ông gửi cho giáo trình và bài tập, làm bài xong gửi lại để ông chữa, cho nhận xét và gửi lại… Thời đó giao thông bưu điện của ta trong kháng chiến phải trải qua bao chặng đường gian nan vất vả, có khi nguy hiểm mà vẫn hoàn thành …thật là kỳ diệu!
Năm 1951, ông Nguyễn Xiển được Chính phủ biệt phái sang Bộ giáo dục, cùng Thầy Lê Văn Thiêm chuẩn bị thành lập hai trường Khoa học Cơ bản và Sư Phạm Cao cấp. Theo Nghị định của Bộ Giáo dục hồi đó, ngành Sư phạm có 3 loại trường SP sơ cấp, SP trung cấp, Sư phạm Cao cấp, còn trường KHCB nhằm đào tạo sinh viên sau này đi vào các ngành khoa học kỹ thuật. Ông Xiển đã từng cùng ông Lê Văn Thiêm đi xe đạp vào khu 4 để tuyển sinh và tìm thầy. Tại đây hai thầy đã tìm được GS. Hoàng Ngọc Cang dạy Hoá, GS. Lê Khả Kế dạy Sinh vật, … tuyển được một số học sinh xuất sắc sau này thành tài như Nguyễn Đình Tứ, Hà Học Trạc, Đinh Ngọc Lân v.v… Tại Việt Bắc, ông Xiển đã gặp GS. Nguyễn Cảnh Toàn, GS. Dương Trọng Bái… Khoá 1 trường Sư phạm cao cấp có 27 sinh viên, ông Xiển tham gia dạy Giải tích và Lý thuyết xác suất. Ông Xiển là Phó Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban khoa học Nhà nước (do Phó Thủ tướng Trường Chinh làm Chủ nhiệm), là Hội trưởng đầu tiên của Hội phổ biến khoa học kỹ thuật Việt Nam, Chủ nhiệm đầu tiên của tờ báo Khoa học thường thức, mỗi số ra 10 vạn bản. Nhưng ngành mà ông được Nhà nước giao phó và ông có công đầu gây dựng là ngành Khí tượng – Thủy văn – Thiên văn, và ông gắn bó với ngành này gần nửa thế kỷ. Ổng là Tổng thư ký Đảng Xã hội từ 1956 đến khi giải thể 1988.
Từ năm 1951 ông Hãn sang lại Pháp và ở luôn bên đó. Khó mà kể hết các ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên nơi ông có để lại dấu ấn. Ông chính là người đưa văn học, lịch sử Việt Nam ra với thế giới, đặc biệt là văn hóa cổ. Về khoa học cơ bản người Pháp rất coi trọng ông, ông là một trong số ít người gốc nước ngoài được tham gia vào chương trình nguyên tử của Chính phủ Pháp. Trong thời gian đàm phán Hiệp định Paris 1972-1973 ông Xiển có gửi gắm người bạn chung bên Pháp là ông Ngụy Như Kôn Tum và người con rể cũng học trường Cầu đường Paris trước kia tên là Lê Tâm tìm cách liên hệ với ông Hoàng Xuân Hãn. Nhưng phía Pháp trả lời, là ông Hãn đang làm việc với những đề tài quốc gia về năng lượng nguyên tử rất quan trọng của Pháp nên đành cáo lỗi, không thể để ông Hãn liên hệ với những người đồng hương được… Ông Hãn là một niềm tự hào của dân gốc Việt tại châu Âu và Pháp. 
Cuối năm 1985, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từ Paris đã gửi một bức thư cho Giáo sư Nguyễn Xiển, người bạn cũ đồng hương đã cùng nhau gắn bó trong những năm học trường quốc học Vinh cũng như trong thời kì làm báo Khoa học. Sau đây là thư trả lời của ông Xỉển. 
“Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 1986
Anh Hãn!
Đầu năm, tôi được một điều vui bất ngờ mà tôi cũng từng mong ước từ lâu. Anh Hoàng Y, từ Paris về, đã đến trao cho tôi cuốn Lịch và lịch Việt – Nam, mà anh đề tặng “người bạn 60 năm” kèm theo một bức thư ngắn chân tình làm tôi biết bao cảm động.

Cuốn sách của anh tôi đã nghe tiếng mấy năm rồi. May có người tìm được cho tôi mượn đọc, tôi đã viết bài hoan nghênh trên báo Tổ quốc tháng Mười 1984, có nhắc lại các bài viết về lịch của anh trên báo Khoa học mà tôi còn nhớ để bổ sung cho bài giới thiệu vắn tắt của Ngọc Liễn đăng trên báo Nhân dân Xuân 1983. Báo Tổ quốc nhận được hai số báo Đoàn kết tháng Chín và tháng Mười của Hội người Việt Nam tại Pháp có bài về ngày Tết Ất Sửu. Tôi hoan nghênh anh đã tán thành việc sửa đổi cách tính âm lịch theo giờ chính thức của nước ta.
Bốn mươi năm dài, không có thư qua lại, quả là chậm. Hai chúng ta đã quá tuổi “cổ lai hi” lâu rồi. Bây giờ nhìn lại cuộc đời, ai cũng luyến tiêc cái buổi đầu yêu nước của thời còn trẻ. Chúng ta không thể không nhớ tới cái thời vui trẻ của nhóm Khoa học trong những năm 1942 -1944 như anh đã ngụ ý trong cuốn sách của anh. Mấy năm sau này, tôi đã bỏ lỡ cơ hội để nói về báo Khoa học của chúng ta, đồng thời nêu cao công của anh trong việc xuất bải tập Danh từ khoa học đầu tiên bằng tiếng Việt.

Sách của anh nhắc tới thời kì báo Khoa học làm tôi trẻ lại 40 năm. Thư của anh năm nay lại làm tôi trẻ lại 60 năm với đôi câu đối bằng chữ Hán mà hai ông quan tỉnh lại là hai tiến sĩ có tiếng hay chữ thời bấy giờ đã tặng bốn người học trò Nghệ – Tĩnh đầu tiên chiếm bảng vàng trong thời kì thi “tú tài tây” ở Hà Nội năm 1928 . Tôi phục trí nhớ của anh đã ghi đủ hai vế của một đôi câu đối rất hay mà anh Nguyễn Văn Định và tôi còn nhớ đủ ý nhưng về văn, thì còn phân vân về một đôi chữ thâm thuý mà chỉ các nhà túc nho mới hiểu được. Anh đã điền đủ các chữ ấy mà nhà nho đã viết bằng bút lông trên giấy hồng điều, còn anh thì bằng bút sắt mặc dù mắt đã kém, như anh cho biết, nhưng theo tôi, chữ con kiến của anh vẫn còn đủ nét và dễ đọc như những chữ Hán mà tự tay anh đã ghi vào cuốn Lịch và lịch Việt Nam ở Paris.
Tôi rất cảm ơn anh nhắc lại những kì vọng mà các nhà trí thức cựu học đã gửi gắm vào bọn trí thức tân học thế hệ chúng ta là con cháu các nhà nho Nghệ Tĩnh từng tham gia phong trào cần vương và Văn thân. Nói lên lời tâm đắc ấy, tôi tin rằng anh còn đủ sức để tham gia tích cực vào phong trào Việt kiều yêu nước ở Pháp. Còn tôi, tuổi xấp xỉ 80, đã thôi tham gia trực tiếp vào công việc nghiên cứu khoa học từ lâu, nhưng vẫn còn phải tham gia vào Hội đồng Khoa học liên ngành về nghiên cứu và xét duyệt lịch do Chính phủ ta lập ra bên cạnh Viện khoa học Việt Nam. Tôi vẫn giới thiệu anh là nhà chuyên gia số 1 về vấn đề này và đề nghị các cơ quan có trách nhiệm nên tranh thủ sự đóng góp trực tiếp hay gián tiếp của anh.

Với tình bạn 60 năm, cùng chung một chí hướng xây dựng nền khoa học của nước nhà trong 40 năm, tôi chúc anh giữ sức khoẻ để tiếp tục đóng góp vào việc thực hiện lí tưởng của chúng ta.

Thân ái và tin tưởng

                                                                  N. X.”
Hai ông đồ xứ Nghệ đã sống một cuộc đời đầy sự kiện và có rất nhiều khác biệt, nhưng có lẽ họ luôn nghĩ về nhau và đau đáu nghĩ về quê hương đất nước. Họ đến và đi khỏi cuộc đời này khá giống nhau (ông Xiển 1907-1997; ông Hãn 1908-1996). Năm 1996 ông Nguyễn Xiển được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (ông hay đùa là “nhà này nhận đến 3 giải, cả ông thông gia, cả ông con rể nữa” – nhưng với tính cách như ông Trần Việt Phương nhận định “ông Xiển… là người luôn thực hiện công khai, minh bạch việc mà sau này gọi là phản biện xã hội”. Ông Xiển đã có ý kiến với Hội đồng xét duyệt, là Giải thưởng trao cho cá nhân về bản chất không phải vì những công trình được nêu tên ra, mà vì đóng góp quý báu của cá nhân đó cho nền khoa học, giáo dục hay xã hội. Vì thế nên rất vô lý khi thiếu những tên tuổi lừng lẫy của những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ trong đó tất nhiên phải kể đến cái tên Hoàng Xuân Hãn. Có lẽ một phần vì những “góp ý” như của ông mà ông Hoàng Xuân Hãn đã được truy tặng giải thưởng này đợt II, mặc dù đã muộn. Ông Nguyễn Xiển tự viết tưởng niệm về nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn và người bạn 60 năm của mình, người đã tạ thế ở Paris ngày 10-3-1996. Ông Xiển cũng mất sau người bạn mình một năm.
(Ảnh: sưu tầm)

Source: https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1984448634950397&id=100001558398112

(tác giả là anh Nguyễn Nam, cháu ngoại cụ Nguyễn Xiển – theo anh Đỗ Hoàng Sơn ở cty sách Long Minh)

Sự học của hai ông đồ xứ Nghệ (Nguyễn Xiển và Hoàng Xuân Hãn)
Tagged on:                 
%d bloggers like this: