Phần 1
PHÁT TRIỂN TRÍ TƯỞNG TƯỢNG Ở TRẺ MẪU GIÁO
Tưởng tượng là gì?
Hoạt động sáng tạo của một người là quá trình tạo ra một cái gì đó mới, có thể là một thứ bên ngoài, thế giới hữu hình, hoặc xây dựng một ý nghĩ mới, những cảm xúc được tìm thấy bên trong một người.
Mọi người đều biết rằng hoạt động là có thể được lặp lại (tái tạo) hoặc sáng tạo (tạo mới). Hoạt động thuộc loại tái tạo thì được kết nối chặt chẽ với bộ nhớ của chúng ta. Hoạt động sáng tạo đòi hỏi kết hợp các khả năng của bộ não, đó là những khả năng đóng vai trò cơ chế của trí tưởng tượng.
Tưởng tượng: là quá trình tâm lý của việc tạo ra hình ảnh mới trên cơ sở các khái niệm được hình thành trước đó.
Các quá trình sáng tạo có thể được thấy rõ nét trong giai đoạn nhỏ tuổi (từ mới sinh đến 8 tuổi), thường được thể hiện trong các trò chơi, và các hoạt động bằng lời nói và hình ảnh. Các trò chơi của trẻ em là sự làm mới một cách sáng tạo các trải nghiệm trong quá khứ, kết hợp chúng để xây dựng nên một thực tế mới.
Sự cố gắng của đứa trẻ trong việc sắp xếp trò chơi chính là hoạt động của sự tưởng tượng.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của trẻ, trí tưởng tượng hoạt động theo một cách riêng. Chắc chắn rằng mức độ tưởng tượng phụ thuộc vào trải nghiệm của trẻ, và hình thành và phát triển dần dần. Có thể xác định các đặc điểm cơ bản của trí tưởng tượng, trên cơ sở đó có thể xác định mức độ phát triển của quá trình tâm lý này.
1. Khả năng kiểm soát (hoạt động) được đặc trưng bởi mức độ mà trẻ mẫu giáo chấp nhận một vấn đề sáng tạo. Khả năng kiểm soát phụ thuộc vào động lực giúp trẻ thể hiện, và là thứ giúp trẻ “giữ” và hoàn thành hoạt động sáng tạo.
Đó là lý do tại sao có các mục tiêu sau đây cho giáo viên:
– hình thành trí tưởng tượng có kiểm soát;
– hình thành môi trường giúp tạo động lực;
– phát triển khả năng tự điều chỉnh hoạt động của trẻ.
Sự mất kiểm soát được đặc trưng bởi sự thụ động, rút khỏi chủ đề được giao.
2. Sự tưởng tượng có thể là tái tạo (mô tả một hình ảnh bằng cách diễn đạt) hoặc sáng tạo (dựng mới những hình ảnh mà điều này đòi hỏi một đứa trẻ phải sắp xếp các nguyên liệu vào một bức tranh lớn).
Khi chú ý đến các nguyên tắc này, giáo viên được giới thiệu các mục tiêu sau:
– tổ chức công việc với các trẻ mẫu giáo nhằm mục đích phát triển trí tưởng tượng sáng tạo;
– mở rộng lượng dự trữ thông tin của trẻ.
3. Các cấp độ của trí tưởng tượng sáng tạo:
Cấp 1: tưởng tượng các đối tượng và quá trình đã có trong trải nghiệm của trẻ.
Cấp 2: Tưởng tượng các đối tượng và quá trình không có trong kinh nghiệm của trẻ, nhưng trẻ lại có đủ thông tin từ nhiều nguồn khác nhau (truyền hình, đã chứng kiến, sách, v.v.)
Cấp 3: Tưởng tượng các đối tượng và quá trình không có trong trải nghiệm của trẻ và trẻ cũng có rất ít thông tin về chúng.
Liên quan đến điều đó, giáo viên được giới thiệu các mục tiêu sau:
– tăng số lượng bài tập yêu cầu trẻ sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo cấp thứ hai và ba, với mức thành thạo chấp nhận được.
– mở rộng dự trữ thông tin của trẻ, bằng cách để trẻ tưởng tượng về một đối tượng nào đó với các mức độ chi tiết khác nhau;
– tổ chức cho trẻ quan sát lâu về một đối tượng hoặc một quá trình, cùng với thảo luận chi tiết;
– tạo ra các môi trường trong đó đối tượng có thể được cảm nhận bằng tất cả các giác quan.
4. Các chỉ số về sự đa dạng và chi tiết của một đối tượng được tưởng tượng.
Có thể đánh giá mức độ phát triển trí tưởng tượng bằng các chỉ số của sự đa dạng (chỉ ra một số lượng lớn các thay đổi khác nhau của một hình ảnh nhất định) và sự chi tiết (khả năng của một đứa trẻ tưởng tượng về các nét đặc trưng khác nhau của một đối tượng trong mối quan hệ của chúng).
Khi phát triển mức độ chi tiết về một đối tượng tưởng tượng, nên sử dụng mô hình mô tả đối tượng theo một số đặc điểm: chức năng, thành phần, vật liệu, kích thước, hình thức, màu sắc, môi trường xung quanh của đối tượng tưởng tượng, lịch sử nguồn gốc của nó và khả năng phát triển cao hơn.
Liên quan đến vấn đề này, các mục tiêu sau được đặt ra cho giáo viên:
– tổ chức công việc trong đó trẻ em tạo ra các phiên bản khác nhau của cùng một đối tượng;
– chọn một trong các đối tượng được tạo và soạn một sản phẩm bằng lời nói hoặc đồ họa về nó với mức độ chi tiết cao (Hãy lưu ý rằng bạn phải xác định trước các giới hạn để thúc đẩy sự sáng tạo, điều này có thể là ưu điểm hoặc nhược điểm).
5. Chỉ số độc đáo.
Đứa trẻ có khả năng đề xuất những ý tưởng khác với những ý tưởng được chấp nhận rộng rãi hoặc điển hình.
Liên quan đến vấn đề này, các mục tiêu sau được đặt ra cho giáo viên:
– tạo môi trường để làm việc nhóm (tạo cơ hội cho trẻ em lắng nghe câu trả lời của trẻ khác và chọn đối tượng khác thường nhất trong số những thứ được đề xuất);
– tạo điều kiện để trau dồi ở trẻ khả năng chứng minh và bảo vệ ý kiến của mình.
6. Chỉ số khoan dung được đặc trưng bởi mức độ cởi mở đối với một sản phẩm sáng tạo từ người khác.
Liên quan đến điều này, các mục tiêu sau được đặt ra cho một đứa trẻ:
– tạo ra một môi trường “văn hóa về học tập” an toàn để trẻ em có thể lắng nghe nhau, vui mừng vì thành công của người khác, tôn trọng ý kiến của bạn bè và cảm thấy có thể chấp nhận rủi ro và thử các nhiệm vụ mới để phát triển kỹ năng của mình .
Có những hướng dẫn được phát triển để xác định mức độ sáng tạo ở trẻ em. Trong nền tảng của các quy tắc này là các ý tưởng của G.S. Altshuller và M.S. Gafitulin.
Ai cũng biết rằng một đánh giá tích cực thúc đẩy sự hình thành mối quan tâm lâu dài trong bất kỳ loại hoạt động nào. Sử dụng các quy tắc này, một giáo viên có cơ hội đặc biệt để đưa ra đánh giá tích cực cho mỗi công việc của trẻ em theo một chỉ số cụ thể của sự phát triển trí tưởng tượng sáng tạo.
Các quy tắc đánh giá mức độ của một công việc sáng tạo của trẻ mẫu giáo.
QUY TẮC 1
Mức độ độc đáo của một tác phẩm được xác định trên cơ sở so sánh với các tác phẩm của những đứa trẻ khác trong nhóm, thực hiện cùng một nhiệm vụ.
Thí dụ:
Michaela, Bailey và Jayden (tuổi từ 5-8), được giáo viên giao nhiệm vụ vẽ các loại phương tiện giao thông tương lai khác nhau. Cả Bailey và Jayden đã vẽ ra một số cơ chế hợp lý, có bánh xe và cánh. Micheala mô tả một đường hầm ngầm di chuyển như một phương tiện vận chuyển người. Tác phẩm này có thể được coi là độc đáo trong giới hạn của chủ đề được giao, vì không ai khác có giải pháp tương tự.
Tính độc đáo được xác định theo bốn tiêu chí cơ bản:
– tính mới;
– khả năng thuyết phục ai đó về ý tưởng này;
– tính người;
– giá trị nghệ thuật trong khả năng trẻ mẫu giáo hiểu được.
Sự đặc trưng cho mỗi tiêu chí được đưa ra trong các quy tắc 2, 3, 4, 5 sau đây.
QUY TẮC 2
Tính độc đáo có thể được xác định bằng tính mới để đánh giá hoạt động sáng tạo của trẻ em, cần xem xét các cấp độ sau:
Cấp độ thứ nhất: Nguyên mẫu tương tự như nguyên mẫu đã được thảo luận hoặc xây dựng trước đó (trong một câu chuyện, tình huống, hình ảnh, điêu khắc, v.v.)
Thí dụ:
Chủ đề “Ngôi nhà mà tôi chưa từng thấy” – ở cấp độ đầu tiên là bản vẽ của những ngôi nhà có thể tìm thấy trong trải nghiệm của trẻ, khác nhau về màu sắc và hình thức.
Cấp độ thứ hai: Nguyên mẫu đã được thay đổi, nhưng thiếu ý tưởng mới có chất lượng. Đứa trẻ đã thực hiện một số sửa đổi về đối tượng mà không có sự thay đổi có ý nghĩa.
Thí dụ:
Mô tả một ngôi nhà khác thường về hình thức, màu sắc, chi tiết (ngôi nhà có hình tròn hoặc cửa sổ có dạng hình con gấu). v.v.
Cấp độ thứ ba: Nguyên mẫu đã được thay đổi rất nhiều đến nỗi một ý tưởng mới có chất lượng xuất hiện.
Thí dụ:
Bản thân ngôi nhà được “giấu” trong các đồ vật khác (một ngôi nhà ở dạng bánh hoặc TV); ngôi nhà nằm trong một môi trường khác thường hoặc không phải là điển hình cho cư dân (một ngôi nhà cho kiến dưới nước có hình dạng của một tổ ong).
Cấp độ thứ tư: Nguyên mẫu hoàn toàn biến mất, và một ý tưởng hoàn toàn mới cho tình huống đã cho xuất hiện.
Thí dụ:
Ngôi nhà được giới thiệu như một khái niệm trừu tượng (một hành tinh chưa biết là ngôi nhà cho toàn bộ người ngoài hành tinh).
QUY TẮC 3
Sử dụng các tiêu chí tóm tắt để cân nhắc khả năng thuyết phục và đánh giá hoạt động sáng tạo của trẻ là cần thiết khi xem xét các mức sau:
Mức thứ nhất: Tạo ra một ý tưởng (cốt truyện, tình huống, v.v.) chỉ cố định, nhưng không được thảo luận hoặc giải thích.
Mức thứ hai: Đứa trẻ với khả năng xác thực ở một mức độ đủ để giải thích cách một hình ảnh tưởng tượng xuất hiện, tại sao và làm thế nào nó tồn tại, và nó tương tác với ai hoặc với những gì. Quá trình thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa các đối tượng tưởng tượng đang được tiến hành. Đứa trẻ mô tả hoặc vẽ lại tình huống tương tác giữa chúng.
QUY TẮC 4
Tiêu chí về tính người dựa trên việc phân tích các mối quan hệ và sự tương tác giữa đối tượng tưởng tượng với môi trường xung quanh do trẻ xây dựng nên, từ góc nhìn của việc sáng tạo. [Ghi chú: người dịch cũng thấy khó hiểu]
QUY TẮC 5
Tiêu chí về giá trị nghệ thuật của một sản phẩm sáng tạo được xác định bởi mức độ thể hiện bằng đồ họa, trong khả năng của trẻ mẫu giáo.
Thí dụ:
Khi mô tả một loại động vật tưởng tượng, đứa trẻ đã sử dụng những so sánh khác thường (giọng nói của Fionna nghe như tiếng lạo xạo của cát khi gió thổi chúng … “); khi điêu khắc, với chủ đề “những cái đĩa lạ lùng”, trẻ dùng nhiều chi tiết nhỏ để trang trí bề mặt.
QUY TẮC 6
Một giáo viên có thể đưa ra một tiêu chí chủ quan, không cần căn cứ vào gì khác ngoài dựa trên đánh giá cá nhân (“Cảm ơn vì ý tưởng và công việc của bạn, hãy xem các bạn khác nghĩ ra những gì”).
Các quy tắc đánh giá sản phẩm sáng tạo của trẻ cho phép không chỉ xác định mức độ trí tưởng tượng của trẻ vào thời điểm đó, mà còn tạo cơ hội khuyến khích tính cá nhân và sáng tạo của trẻ, từ đó hình thành ở trẻ sự quan tâm lâu dài đối với việc tạo ra những điều mới.
Nghiên cứu tâm lý – sư phạm có nhiều ý kiến khác nhau về việc tạo điều kiện thích hợp để phát triển trí tưởng tượng ở trẻ. Một số tác giả tin rằng giáo viên chỉ nên kích thích các quá trình sáng tạo với sự trợ giúp của hoạt động đồ họa. Những người khác tin rằng mức độ tưởng tượng tăng lên khi một tâm trạng cảm xúc cụ thể của hoạt động sáng tạo được tạo ra ở trẻ em. Nhiều nhà nghiên cứu có xu hướng bảo vệ quan điểm rằng một đứa trẻ có thể được dạy để tạo ra các khái niệm tưởng tượng.
Thế giới có khoảng 70 khái niệm về phát triển trí tưởng tượng và các phái sinh của chúng. Mục tiêu chính của các phương pháp này là loại bỏ tính ì tâm lý trong một người đang làm việc trên một sản phẩm sáng tạo.
Mặc dù có rất nhiều phương pháp để phát triển trí tưởng tượng, chúng có một mô hình chung, có thể được mô tả theo kiểu sau:
– Đối tượng
– Thay đổi một đặc điểm (tham số, thuộc tính) hoặc giá trị của nó
– Đối tượng mới.
Ví dụ về việc tạo một đối tượng tưởng tượng theo mô hình đã cho:
1. Con mèo (object) – nói (một đặc điểm của con người được thêm vào) – mèo biết nói (đối tượng mới);
2. Con mèo (object) – không có màu (đặc điểm của màu bị loại bỏ) – con mèo trong suốt (đối tượng mới);
3. Con mèo (object) – tất cả các bộ phận của cơ thể đã thay đổi hình dạng và trở nên tròn (biến đổi giá trị của đặc điểm của hình dạng) – con mèo làm từ các khối cầu (đối tượng mới – “mèo từ khối cầu”).
Khả năng điều khiển các đặc điểm của một đối tượng và các giá trị của chúng là cần thiết cho một người đang giải quyết các vấn đề sáng tạo. Làm việc với mô hình này thúc đẩy sự phát triển của trí tưởng tượng và là bước đầu tiên trong việc hình thành khả năng sáng tạo của một người nói chung.
Phần về “phát triển trí tưởng tượng ở trẻ mẫu giáo” mô tả các phương pháp phù hợp để làm việc trong điều kiện của một trường mẫu giáo.
Đối với mọi phương thức, một phần riêng biệt được phân bổ, được cấu trúc theo cách sau:
– mô tả phương pháp;
– mục đích chính có thể đạt được với sự trợ giúp của phương pháp này;
– các bước trong quy trình thực hiện buổi đào tạo;
– những khuyến nghị có hệ thống để thực hiện các buổi đào tạo cho trẻ em ở các độ tuổi khác nhau;
– kết quả mong đợi;
– trò chơi và bài tập sáng tạo trên cơ sở của phương pháp đã cho.
Một kế hoạch bài học tiêu chuẩn sẽ được sử dụng, gồm: Tiêu đề, lý do / hoàn cảnh, mục đích, quy trình, kết quả, sự thay đổi hoặc biến thể, và phần mở rộng.
—
Người dịch chính: Nguyễn Thành Tiến