Phần 2

PHÁT TRIỂN TƯ DUY Ở TRẺ MẪU GIÁO

MÔ TẢ CHUNG VỀ TƯ DUY SÁNG TẠO

Tư duy (Suy nghĩ) thường được hiểu là hình thức cao nhất của sự nhận biết của con người, phản ánh hiện thực trước mắt, bằng cách tóm tắt và làm trung gian, thiết lập các liên kết và mối quan hệ giữa các đối tượng và hiện tượng.

Suy nghĩ phản ánh các đối tượng và hiện tượng của thực tại theo các đặc điểm, liên kết và mối quan hệ có ý nghĩa của chúng. Nó dựa vào một số thông tin cảm giác nhất định, nhưng vượt trên giới hạn của thông tin này, thâm nhập vào chính bản chất của một hiện tượng, nắm bắt các đặc điểm và mối quan hệ không được cảm nhận trực tiếp bởi các giác quan.

Tư duy không thể phát triển nếu không hình thành các hoạt động suy nghĩ sau:

– phân tích (phân tách trong suy nghĩ một cái tổng thể thành các phần, hoặc tách rời các khía cạnh, hành động, mối quan hệ ra khỏi cái tổng thể);

– tổng hợp (thống nhất trong suy nghĩ các bộ phận, tính chất, hành động thành một cái tổng thể duy nhất);

– so sánh (thiết lập sự tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng, hiện tượng hoặc tính chất của chúng);

– khái quát hóa (thống nhất trong suy nghĩ các đối tượng hoặc hiện tượng bằng các đặc điểm có ý nghĩa).
Những hoạt động suy nghĩ này tồn tại như một tổng thể không thể tách rời.

Suy nghĩ luôn được định nghĩa là một quá trình sáng tạo, vì sự suy ngẫm là một quá trình biến đổi sáng tạo của hình ảnh chủ quan trong ý thức của một người.

Chúng ta biết rằng một trong những tiêu chí về mức độ tư duy của một người là khả năng giải quyết các vấn đề sáng tạo. Có hai quá trình được liên kết và có liên quan đến nhau đang hoạt động ở đây: tư duy sáng tạo và trí tưởng tượng có kiểm soát (MV. Gamezo, I.A. Domashenko, Một bản đồ tâm lý).

Vấn đề sáng tạo được hiểu là một vấn đề mở, được đặc trưng bởi:
– sự mơ hồ về trạng thái;
– tính đa dạng của phương pháp giải;
– nhiều phiên bản của câu trả lời cuối cùng.

Có giả thuyết cho rằng việc sắp xếp cho trẻ mẫu giáo làm việc với các vấn đề sáng tạo sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành các quá trình tư duy của chúng.

Từ đó, các yếu tố sau cần được xem xét:

+ Sự nhạy cảm với tình huống vấn đề

Một vấn đề hoặc một nhóm các vấn đề sáng tạo được cố định trong ranh giới của một lĩnh vực. Trong sự thành lập của tình huống vấn đề, có sự xung đột giữa các đặc điểm ban đầu của một đối tượng và kết quả mong muốn, mà kết quả đó không thể đạt được dựa trên cơ sở của sự tương tự có sẵn trong kinh nghiệm của một người.

Liên quan đến vấn đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho bản thân: phát triển sự nhạy cảm của trẻ với tình huống vấn đề, cũng như khả năng chỉ ra bằng lời nói về lĩnh vực của vấn đề và chọn ra vấn đề sáng tạo (hoặc một nhóm vấn đề) từ một nội dung cụ thể.

+ Sự cần thiết của việc giải quyết vấn đề.

Làm việc với cấu trúc của vấn đề sáng tạo: xác định trạng thái vấn đề, thiết lập câu hỏi, đi đến kết quả.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:

– làm cho trẻ quen với quá trình làm việc với một vấn đề sáng tạo (mô tả trạng thái, thiết lập các câu hỏi);

– hình thành động lực để giải quyết các vấn đề sáng tạo;
– tạo ra các hoàn cảnh trong đó hoạt động giáo dục của trẻ mẫu giáo có thể được thực hiện.

+ Hệ thống hóa thông tin

Mỗi đối tượng được thể hiện bởi một hệ thống biến đổi theo thời gian và các mối liên kết về tính năng với đối tượng khác. Hoạt động suy nghĩ được thực hiện, nhằm so sánh các chức năng khác nhau của các hệ thống.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:
– hình thành ở trẻ cách nhìn một đối tượng như một hệ thống;
– phát triển khả năng so sánh các đặc điểm khác nhau của các đối tượng;
– phát triển trí nhớ được kiểm soát;
– mở rộng lĩnh vực thông tin.

+ Phân loại thông tin

Việc phân loại được hiểu là đánh giá các đối tượng nhất định theo những đặc điểm nhất định. Đối tượng của thế giới vật chất được phân loại theo các quy tắc được chấp nhận rộng rãi. Mỗi người tạo ra cấu trúc phân loại cho mình, trên cơ sở một số đặc điểm được họ lựa chọn.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:

– hình thành ở trẻ em khả năng xác định đặc điểm của một đối tượng và xây dựng các cấu trúc được phân loại trên cơ sở các quy tắc được chấp nhận rộng rãi;

– tạo điều kiện cho sự tương tác rộng hơn với thế giới thực tại và xác định các đặc điểm cụ thể trong các đối tượng.

+ Tài nguyên (còn gọi là “nguồn dự trữ”) của một đối tượng và môi trường xung quanh
Tài nguyên được hiểu là những đặc điểm chưa được sử dụng của một đối tượng.

Xác định tài nguyên của một đối tượng, các bộ phận, vị trí, tài nguyên thời gian, v.v. Thực hiện hoạt động phân tích tổng hợp với mục đích bắt đầu một sự tương tác có thể có giữa các tài nguyên được phát hiện.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:

– hình thành ở trẻ em khả năng mô tả một đối tượng trong khung các chức năng của nó;

– tạo hoàn cảnh để xác định các khả năng chưa được sử dụng của một đối tượng;
– dạy kỹ năng thiết lập kết nối giữa các đối tượng.

+ Mâu thuẫn và các kỹ thuật giải quyết

Mâu thuẫn là việc tồn tại hai đòi hỏi mâu thuẫn, khác nhau về bản chất đối với một đặc điểm của đối tượng. Các phương pháp giải quyết tình huống vấn đề được lựa chọn trên cơ sở các nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:

– dạy cách để hình thành mâu thuẫn;

– làm quen với các phương pháp giải quyết mâu thuẫn;

– khả năng khái quát hóa kinh nghiệm tích lũy.

+ Hoạt động ký hiệu

Mô hình là một hình ảnh của đối tượng. Hoạt động ký hiệu dùng để mô tả một đối tượng thực bằng nhiều phương tiện: mô hình-sơ đồ, mô hình-hành động, mô hình-hình ảnh, v.v.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:
– hình thành ở trẻ em các hoạt động suy nghĩ về khái quát hóa và trừu tượng hóa;

– làm quen với các hiện tượng tự nhiên vô tri (không liên quan đến sinh vật); tạo ra các mô hình khác nhau của một đối tượng;

– dạy cho trẻ em các yếu tố của sơ đồ, mô hình hóa bằng từ với các mức độ chi tiết khác nhau.

+ Sự tự ngẫm

Sự tự ngẫm là quá trình đánh giá các trạng thái tâm lý của chính mình. Sự tự ngẫm cho phép người ta nhận thức được các kỹ thuật suy nghĩ được sử dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề sáng tạo.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:
– dạy để diễn đạt bằng lời nói về các hoạt động suy nghĩ khi làm việc với một vấn đề sáng tạo;
– phát triển sự tự đánh giá bằng cách hình thành nền tảng của sự tự phân tích và sự tự đánh giá.

+ Nhận thức kết quả của việc giải quyết một vấn đề như một “trường” vấn đề mới và trên cơ sở đó, tạo ra một vấn đề mới

Việc diễn đạt giải pháp của một vấn đề sáng tạo bằng lời nói là cần thiết; để tìm ra các vấn đề mới trong giải pháp và, trên cơ sở của chúng, hình thành các vấn đề sáng tạo khác.

Liên quan đến chủ đề này, giáo viên đặt ra các mục tiêu sau đây cho chính mình:
– hình thành ở trẻ khả năng làm việc với một chuỗi các vấn đề sáng tạo;

– Tạo ra môi trường để trau dồi ở trẻ mẫu giáo mong muốn làm việc với một chuỗi các tình huống vấn đề.

Chiến lược giải quyết vấn đề sáng tạo phụ thuộc nhiều vào đối tượng cụ thể được chỉ ra trong ngữ cảnh của nó cũng như về bản chất của câu hỏi và tính chất của nó.
TRIZ trong sư phạm đã tạo ra quy trình cho phép thực hiện hiệu quả việc dạy trẻ làm việc với các vấn đề sáng tạo. Khi giải quyết những vấn đề này, các hoạt động suy nghĩ là cần thiết để có thể cho phép tìm ra giải pháp tối ưu mà không tạo thêm các vấn đề dư thừa khác.

Một số loại vấn đề sáng tạo đã được xác định. Chúng được mô tả trong các chương nhất định của phần này của cuốn sách:

+ vấn đề sáng tạo với dữ liệu không đủ (Chương 1. “Sự hình thành các quá trình suy nghĩ dựa trên sự chia đôi”);

+ các vấn đề liên quan đến tiên lượng (Chương 2. Hình thành nền tảng của tư duy hệ thống ở trẻ mẫu giáo);

+ vấn đề sáng tạo (Chương 3. Hình thành nền tảng của tư duy biện chứng.

Mỗi loại vấn đề sáng tạo đều có các thuộc tính riêng cần được xem xét khi xây dựng một quy trình giải quyết nó.


Người dịch chính: Nguyễn Thành Tiến

Kiểm tra bản dịch Anh – Việt

Back to Top