Altshuller là cha đẻ của TRIZ, ông phải là một người cực kỳ đặc biệt để tạo ra một ngành khoa học mới và có khả năng ảnh hưởng lâu dài đến nhân loại. Bài này tạm tập hợp những tài liệu để tìm hiểu về G.S. Altshuller.
Bài tiếng Việt của thầy Phan Dũng, viết về người thầy của mình, nhiều thông tin:
http://cstc.vn/index.php/vi/ve-thay-genrikh-saulovich-altshuller.html
Bản tiếng Anh của bài phát biểu này (thầy Phan Dũng mang đến hội nghị TRIZCON 2001) cũng được Toru Nakagawa lưu lại trên trang “TRIZ homepage in Japan”:
https://www.osaka-gu.ac.jp/php/nakagawa/TRIZ/eTRIZ/eforum/ePhanDung-Altshuller010509.html
Có mấy đoạn xin trích lại ở đây:
Chúng tôi đi sớm, đến chào Thầy và sau vài câu giới thiệu của Anđrei, tôi vội vàng xổ một tràng dài những gì đã chuẩn bị trước. Chẳng là tôi có nhiều cái lo: trường đã khai giảng được một thời gian mà bây giờ mình mới đến, lỡ đủ chỗ rồi thì sao, lỡ môn này không cho người nước ngoài học thì sao, lỡ… Tóm lại đó là những nỗi lo không được nhận vào học. Thầy lắng nghe chăm chú không ngắt lời và chẳng dè Thầy chỉ nói ngắn gọn làm tiêu tan luôn những câu tôi dự định sẽ trả lời Thầy, nếu Thầy hỏi. Thầy nói: “Nếu anh yêu thích tư duy sáng tạo, xin mời, anh cứ vào học tự nhiên. Tôi nghĩ rằng những gì học ở đây sẽ giúp ích cho anh và đất nước anh hùng của anh. Có gì khó khăn chúng tôi sẽ giúp anh“. Nghe thấy thế tôi sướng bổng người, tưởng chừng như chân không còn chạm đất nữa. Và từ đó, một cuộc đời mới bắt đầu.
(người thầy vĩ đại rất cởi mở và đầy cảm thông)
Trường đại học sáng tạo sáng chế được thành lập theo sáng kiến của Thầy Altshuller và Thầy cũng là người cấu trúc chương trình, nội dung giảng dạy. Trường có mục đích đào tạo các nhà sáng chế chuyên nghiệp, các nhà nghiên cứu, giảng dạy phương pháp luận sáng tạo (PPLST) và các nhà tổ chức hoạt động sáng tạo sáng chế. Trường còn là nơi thử nghiệm các kết quả nghiên cứu mới về TRIZ và thông qua việc giảng dạy, áp dụng của các học viên, có những phản hồi để hoàn thiện thêm TRIZ. Thời gian học là hai năm. Các môn học chính của trường gồm:
Một buổi bảo vệ luận án tốt nghiệp tại Học viện công cộng sáng tạo sáng chế
- Phương pháp luận sáng tạo (gồm TRIZ là chính và các phương pháp của các trường phái khác, kể cả của phương Tây).
- Môn học phát triển trí tưởng tượng sáng tạo.
- Tâm lý học sáng tạo.
- Lý thuyết hệ thống.
- Lý thuyết thông tin.
- Điều khiển học.
- Lý thuyết ra quyết định.
- Patent học.
- Các phương pháp dự báo.
- Lịch sử phát triển khoa học – kỹ thuật.
Môn triết học được xem là đã học ở đại học nên không đưa vào chương trình.
Một số môn học kết thúc bằng làm bài kiểm tra theo kiểu đạt – không đạt, một số môn phải thi lấy điểm. Cuối cùng, để tốt nghiệp, mỗi học viên phải làm luận án và bảo vệ trước Hội đồng khoa học của trường. Có hai loại đề tài luận án: 1) giải một bài toán thực tế đạt mức độ có thể nhận patent (luận án gồm cả tự viết hồ sơ đăng ký sáng chế. 2) nghiên cứu nhằm phát triển tiếp phần nào đó trong PPLST.
Thầy Altshuller trực tiếp dạy hai môn đầu. Đây cũng là hai môn nhiều giờ nhất và phải làm bài tập trên lớp cũng như ở nhà nhiều nhất. Càng học, tôi càng thấm thía lời Thầy Altshuller: “Về lâu dài, giải bài tập sẽ càng quan trọng hơn lý thuyết” và “Học suy nghĩ cũng như học môn thể thao, do vậy, phải chú ý luyện tập thật nhiều để có được các kỹ năng và tác phong cần thiết“.
(Ghi chú thêm, về khả năng lặp lại việc đào tạo này: các lý thuyết ở những môn học 4-10 thuộc dạng khoa học chính xác, môn số 1 – về TRIZ và các trường phái sáng tạo – cũng có tính logic và hệ thống, môn 2 và 3 có lẽ là khó đối với người có xuất phát điểm là khoa học – có lẽ dùng tài liệu của trường phái sáng tạo học Mỹ được; môn số 11 – triết học – thì có lẽ cũng phải dạy lại cho sinh viên Việt Nam, tuy nhiên lý thuyết của Genrikh Altshuller và Phan Dũng sử dụng tư duy “biện chứng” (dialectics) trong triết học thì cũng không xa lắm với triết học xã hội chủ nghĩa. Khó nhất có lẽ là chuẩn bị thư viện các bài tập để phân tích và rèn luyện, thầy Phan Dũng có kể trong một bài khác là quá trình học đó phải làm khoảng 100 bài tập theo các sáng chế).
Suy nghĩ về sự nghiệp của Thầy, chủ quan tôi cho rằng, ít nhất, có những nguyên nhân sau để Thầy kiên trì hành động theo hướng lý tưởng mà Thầy tìm ra:
- Victor Hugo viết: “Có một thứ mạnh hơn tất cả các đạo quân trên thế giới. Đó là ý tưởng mà thời đại của ý tưởng đó đã đến” (There is one thing stronger than all the armies of the world. And that is an idea whose time has come).Phải chăng Thầy đã thấy trước “thời đại của ý tưởng” ấy nên Thầy trở nên mạnh và ngày càng được nhiều người ủng hộ, đi theo Thầy trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Sau này, từ những năm 1990 càng ngày, càng có nhiều nhà nghiên cứu nói về thời đại sáng tạo tiếp sau thời đại tin học.
- Không dừng ở mức độ ý tưởng, Thầy là người hành động, người thực hiện để đưa ý tưởng vào cuộc sống, tiến tới “đổi mới hoàn toàn” (full innovation) bằng chính những luận điểm giải quyết vấn đề do mình tìm ra như “hệ phải thay đổi ít nhất”, phải tiến tới “hệ lý tưởng” (“tự mình” chứ không lập “hệ mới” ngay), phải “tận dụng các nguồn dự trữ có sẵn trong hệ”, đặc biệt “các nguồn dự trữ không mất tiền”, phải tìm và giải quyết mâu thuẫn cốt lõi là “những mâu thuẫn vật lý”, luôn hướng đến “kết quả lý tưởng cuối cùng giới hạn” nhưng cũng rất linh động, không cầu toàn…
- Những hành động của Thầy xuất phát và được thúc đẩy bởi tình cảm lớn: tình yêu nhân loại đến từng người một. Thầy thường nói, đại ý: “Sáng tạo có thể và cần phải khoa học hóa. Khoa học sáng tạo sẽ là khoa học chính xác, có thể dạy và học được để mỗi người bình thường (kể cả các bà nội trợ) có thể sáng tạo một cách khoa học, có phương pháp”. Những người biết Thầy đều khâm phục sức làm việc của Thầy. Có người cho rằng, Thầy làm việc tương đương với một viện nghiên cứu. Những sách về sáng tạo và các truyện khoa học viễn tưởng đã in của Thầy chỉ là phần nổi của tảng băng công việc Thầy đã làm. Để hình dung sức làm việc của Thầy, dưới đây xin đơn cử một việc không lớn: Thầy đọc và viết thư. Từ năm 1974 đến 1986, Thầy cộng tác với báo “Sự thật thiếu nhi” mở chuyên mục “Sáng chế? Thật phức tạp! Thật đơn giản!” nhằm đưa TRIZ đến với thế hệ trẻ. Sau những số đầu tiên phát hành, Thầy nhận được khoảng vài trăm thư phản hồi. Về sau, số lượng thư tăng dần và đạt mức 6 đến 8 ngàn lá thư gởi đến Thầy cho mỗi số báo ra. Riêng số thư Thầy đọc liên quan đến một công việc này thôi đã khoảng 220.000. Để lãnh đạo phong trào TRIZ, Thầy phải viết ít nhất 20 lá thư mỗi ngày cho các học trò của mình ở những thành phố khác. Tình cảm lớn, có lẽ, còn giúp Thầy vượt qua mọi cản phá một cách bình tĩnh và những nỗi đau riêng. Cha Thầy mất, mẹ Thầy tự tử khi Thầy bị giam trong trại tù khổ sai. Sau này, năm 1985 con trai duy nhất của Thầy, Evghênhi (mà chúng tôi thường gọi thân mật là Giênhia, kém tôi khoảng 10 tuổi) chết một cách oan uổng do sai sót của bệnh viện khi mổ ruột thừa, để lại cho vợ chồng Thầy đứa cháu nội gái Yuna mới sinh.
Ngoài ra để thành công, cần phải kể đến những may mắn của Thầy như Thầy có cô Valentina Nhikolaevna* , người vợ chung thủy, người bạn cùng lý tưởng đã sẻ chia, giúp đỡ Thầy và những người bạn, những người học trò, những người ủng hộ Thầy… Những may mắn thuộc về đời thường, nhưng không phải ai cũng có được.
(người ta bảo trẻ em có trí tưởng tượng sáng tạo mạnh nhất, lúc lớn mới bị mất đi, có lẽ làm việc về tri thức sáng tạo với trẻ em thì quan trọng là khuyến khích tinh thần ham mê tìm tòi và không sợ hậu quả. Thầy Phan Dũng cũng có viết trong một bài báo: nên tổ chức dạy sáng tạo từ trẻ mẫu giáo đến lúc trưởng thành, mỗi năm vài giờ học. Có lẽ phổ biến sáng tạo qua hình thức làm một chuyên mục trên tạp chí hàng tuần cho trẻ em là hiệu quả.)
Trên internet có một số video bài giảng của Genrikh Altshuller, có phụ đề tiếng Anh (do người ở công ty làm phần mềm Southbeach tải lên):
- Genrich Altshuller teaching TRIZ 1 of 6: The theory of invention
- Genrich Altshuller teaching TRIZ 2 of 6: Innovation algorithm, Trial and error method, How to find a Needle in a Haystack (làm thế nào để mò kim đáy bể)
- Genrich Altshuller teaching TRIZ 3 of 6: ARIZ = Program
- Genrich Altshuller teaching TRIZ 4 of 6: Contradictions and principles to solve (quote: “8/10 problems can be solved just by using the matrix”), how much time was lost by not knowing TRIZ
- Genrich Altshuller teaching TRIZ 5 of 6: ARIZ = Program + information + control of psychological factors
- Genrich Altshuller teaching TRIZ 6 of 6: The use of ARIZ
Có một tài liệu nữa viết về tiểu sử Altshuller, trong đó có kể là ở cuối một bài giảng của Altshuller, một học viên đã từng được cấp nhiều bằng sáng chế đã ngồi ôm đầu lẩm bẩm “mình đã phí bao nhiêu thời gian, phải chi biết được TRIZ sớm hơn”. Câu chuyện này nằm ở đoạn cuối của bài: Genrich Altshuller: Father of TRIZ.
Một tài liệu tiếng Anh của Nikolai Khomenko, một học trò cũng có thời gian dài gần gũi và cùng phát triển lý thuyết sáng tạo với Genrikh Altshuller, cũng có đoạn kể về công việc của Altshuller ở giai đoạn sau này là mở rộng TRIZ (vốn dành cho kỹ thuật) đến cho mọi người, tạo thành lý thuyết OTSM:
http://www.trizminsk.org/eng/Teaching_TRIZ.pdf
At the beginning of 1980s more and more people started applying TRIZ not only to engineering problem solving but to different kinds of problem even in their private life. That is why Altshuller started writing in his articles and manuscripts that TRIZ had to be transformed into the General Theory of Strong Thinking. OTSM is a Russian abbreviation for theory and at the same time the name given by Altshuller himself.
(như vậy là lĩnh vực kỹ thuật đóng vai trò tạo điều kiện để bước đầu hình thành lý thuyết sáng tạo có định hướng, là TRIZ, sau đó thì Altshuller cũng muốn mở rộng TRIZ ra thành OTSM-TRIZ cho mọi người cùng được học. Cách làm của Phan Dũng cũng đi theo con đường mở rộng TRIZ như thầy. Có lẽ những người làm TRIZ power tools (opensourcetriz.com) cũng có suy nghĩ như thế, kết hợp TRIZ với các công cụ sáng tạo khác để làm một hệ thống lý thuyết dùng được cho nhiều lĩnh vực.)
Các bản lưu PDF:
1 thought on “Genrikh Saulovich Altshuller và TRIZ”
Comments are closed.