Quyển sách “Danh từ khoa học” của cụ Hoàng Xuân Hãn viết năm 1942 bàn về việc “nhập khẩu” thuật ngữ khoa học, ở đó có các chỉ dẫn hữu ích để chọn cách tạo ra từ ngữ mới khi dịch. Cụ Hãn trước tiên nêu các đặc tính được kỳ vọng đối với danh từ khoa học để làm mục tiêu, từ đó phân tích 3 phương thức phổ biến để tạo từ ngữ mới. Khi áp dụng các phương thức này thì cụ cũng đưa ra quy tắc ưu tiên, và cũng rất linh hoạt, ví dụ:
– từ nào đã được dùng phổ biến mà nó không hợp lý lắm thì cũng chấp nhận (trên tinh thần: tiếng nước nào chẳng có đầy chỗ vô lý)
– từ nào cần mượn của Trung Quốc mà vô lý, tuy nhiên nó đã phổ biến ở Trung Quốc nên tồn tại bên đó, thì khi mang về tiếng Việt mình cứ sửa cho hợp lý.
Một bản online của quyển này có ở trang web Thư viện khoa học. Tôi có sửa lỗi chính tả và upload ở đây: Danh tu Khoa hoc Hoang Xuan Han.
Dưới đây là một số trích đoạn trong sách “Danh từ khoa học” của Hoàng Xuân Hãn, năm 1942:
Chương 1: (Xác định các tính chất mong muốn khi tạo từ mới)
Nói tóm lại, một danh từ khoa học cốt có những đức tính sau nầy: đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn.
Chương 2: (Phân tích 3 phương sách tạo danh từ khoa học mới)
Phương sách dùng tiếng thông thường:
Ta có sẵn một ít tiếng thông thường có tính cách chuyên môn hay là khoa học thường thức ; ví như cái kính, chất hơi, phép cộng. Những tiếng ấy rất là quí. Nó không phải là tiếng nôm cả đâu như nhiều người tưởng lầm.
Ta sẽ gọi nó là tiếng thông thường.
Phương sách nầy rất hợp với những điều kiện thứ bốn, thứ bảy và thứ tám, nghĩa là danh từ đặt ra có gốc dễ nhớ, có âm điệu Việt nam và có tính cách quốc gia.
Tiếng thông thường ghép lại tuy thành một tiếng mới, nhưng nó vẫn giữ hoàn toàn ý riêng của mỗi phần, cho nên nó hay làm lầm lẫn nghĩa.
Phương pháp ấy nên khi nào dùng được thì dùng, chớ nó không thông dụng được.
Phương sách phiên âm:
Phương sách nầy dùng danh từ của Âu châu. Chúng ta hấp thụ khoa học bởi Âu châu, nhưng lấy chữ Âu châu làm danh từ khoa học cũng có nhiều điều rất tiện. Vả phần lớn danh từ khoa học của họ lấy gốc ở Hi lạp và La tinh, cho nên danh từ các nước hay tương tự và có tính cách quốc tế. Dùng nó chẳng phải lẽ lắm ru ?
Khốn một nỗi, tiếng Âu châu phần nhiều âm điệu khác hẳn tiếng ta. Hoặc vì chữ dài quá, hoặc vì âm khó đọc quá, ta không thể phiên âm được. Tiếng phiên âm phần nhiều không có tính cách quốc gia, nên sợ khó nhập tịch tiếng ta được. Xem như chữ athlétisme phiên âm ra at-lê-tít-mơ cũng mới lạ như tiếng điền kinh mà chỉ tiếng sau có thể nhận được mà thôi.
Lối phiên-âm nên dùng; nhưng không nên lạm-dụng. Trái lại đối với một ngành khoa-học cực kỳ riêng rẽ như hóa-học mà danh-từ hoàn toàn mới và quốc-tế, ta lại nên dùng phương-sách tiện nầy.
Ta lại còn nên dùng lúc đặt những tên đơn-vị, và những danh-từ đã thành quốc-tế thuộc về khoa-học cao-cấp. Tuy tiếng phiên-âm không gọn gàng, nhưng nó có lợi cho sự giao-tế của người bác-học xứ ta với các xứ ngoài. Lúc mình đã giỏi khoa-học thì đọc sách, đọc báo khoa-học của các nước sẽ dễ nhận được nghĩa.
Phương sách gốc Nho:
Nói tóm lại, phương-sách nầy làm trọn hết tất cả các điều-kiện trên và rất nên dùng một cách phổ-thông.
Tôi tóm tắt những ý trên vào trong bảng sau này.
Phương sách thông thường |
Phương sách phiên âm |
Phương sách gốc nho |
|
1. Đủ tiếng |
không |
có |
có |
2. Mỗi chữ mỗi ý |
không |
có |
có |
3. Mỗi ý mỗi chữ |
không |
có |
có |
4. Có gốc dễ nhớ |
có |
không |
có |
5. Tính-cách liên-lạc và toàn-thể |
không |
có |
có |
6. Gọn gàng |
không |
không |
có |
7. Âm-hưởng ta |
có |
không |
có |
8. Tính cách quốc gia |
có |
không |
có |
Chương 3: (Xem xét kinh nghiệm của tiếng Nhật, Trung, và lĩnh vực luật ở tiếng Việt)
Người Nhật-bản đã giải-quyết bằng ba cách nói trên. Cách đặt bằng tiếng thông-thường rất ít dùng. Cách phiên-âm rất hay dùng nhất là đối với những ý thuộc về ngành cao-cấp. Còn lối dùng gốc chữ Hán là lối rất thông-dụng.
Những thí-dụ trên là lấy trong hàng nghìn thí-dụ khác. Nhưng đối với tiếng Nhật, sự phiền phức có lẽ không quan-hệ lắm [5] vì tiếng nói của họ rất là phí âm, thường phải nói câu dài mới tỏ được một ý ngắn.
Lẽ thứ hai là tính-tình dân-tộc họ rất là chịu khó. Quý hồ học được điều mới. điều hay, khó mấy họ cũng không nản lòng. Họ thấy sự viễn-lợi mà không cho sự danh-từ phiền-phức làm khó chịu. Lẽ thứ ba là người họ rất đồng-tâm, có người xướng thì có người nghe. Họ cốt cần có chữ để dùng mà giảng hay viết khoa-học, chớ họ không để mất thì giờ bàn tán lâu về danh-từ.
Nói tóm lại, người Nhật-bản hoàn-toàn dùng lối phiên âm trong những khoa hóa-học, và các ngành cao-cấp về các môn khác. Còn dư, họ viết bằng Hán-tự và đọc bằng Hán-âm. Cách đặt không có tính-cách toàn-thể và không gọn gàng. Nhưng ai cũng dùng, nên nay đã định hẳn.
Tiếng Trung-hoa phần nhiều có đủ chữ đơn. Nay ghép lại thành chữ kép để chỉ ý mới: hoặc là lấy chữ cũ mà chuyển sang nghĩa mới theo lối nghĩa rộng.
Danh-từ khoa-học đã trải một thời kỳ lộn xộn khá lâu mới được quyết-định một cách chính-thức như ngày nay. Lúc đầu mỗi người dùng chữ một cách. Các nhà khoa-học thấy vậy dã lập nhiều hội để đính-chính.
Vấn-đề danh-từ khoa-học ở Trung-hoa nay có thể gọi là giải-quyết xong, và kết-quả rất là hoàn-bị.
Phàm danh-từ về toán-học, vật-lý-học thì lấy sự thích nghĩa làm chủ. Dùng đơn-âm hay là lưỡng-âm làm qui-tắc. Về hóa-học thì phần vô-cơ dùng lối đặt chữ mới và thích nghĩa và phiên-âm, còn về phần hữu-cơ thì hoàn-toàn phiên-âm.
Ngoài những tiếng phiên-âm, những danh-từ của Trung-hoa đều gọn gàng và đặt có quy-củ cả.
DANH-TỪ LUẬT-HỌC Ở VIỆT NGỮ
Sở dĩ ta chưa có danh-từ khoa-học là vì từ trước đến nay ta chưa cần lắm. Còn về phương-diện luật-học và chính-trị thì lại khác. Người nước ta đã cần có danh-từ để định những bộ luật mới ban-bố cho cả đồng dân thi-hành.
Những ý mà bộ luật Tây phương thu nhập vào thì người ta đã phải đặt mới mà gọi. Phương pháp đặt đều lấy gốc ở Hán văn, ghép âm đơn thành âm kép, ghép âm kép thành chữ dài để chỉ ý phức tạp. Những chữ mới ấy cũng có chữ đặt khéo và gọn, nhưng cũng có chữ đặt vụng nhưng lúc cần phải dùng, dùng sinh quen nên cũng không ai dị-nghị gì. Đó cũng là một lẽ thiên nhiên. Vì tiếng nói nước nào cũng đầy những sự vô lý mà ai cũng nói cả.
Chương 4: (Cách làm được Hoàng Xuân Hãn chọn dùng)
Sau khi xem xét kỹ những nguyên tắc trên, tôi đã định theo sự tiến hoá thiên nhiên của Việt âm mà tham dụng cả ba phương sách.
1. Một chữ Pháp thường có nhiều nghĩa. Tôi kiếm những nghĩa thuộc về khoa học hay là cần dùng trong sự lập luận khoa học. Rồi mỗi nghĩa đặt theo một chữ; chỉ trừ lúc nào những nghĩa ấy xa nhau lắm thì tôi vẫn đặt một chữ mà thôi.
2. Lúc đã chia ra từng nghĩa và nhận nghĩa ấy rõ ràng rồi, tôi bèn nghĩ xem ý ấy thông thường hay là đã vào trình độ khá cao, mà người khoa học không cần hiểu tới.
3. Lúc nào không dùng tiếng thông-thường hoàn toàn được thì tôi phải lấy gốc ở chữ nho. Đây tôi lấy hai điều-kiện ” dễ nhớ đến nghĩa ” và ” gọn gàng ” làm chủ. Sau khi chọn gốc ở chữ nho, tôi chắp nó vào tiếng khác cốt sao cho khỏi lầm nghĩa chữ nầy với chữ kia.
4. Nhiều lúc, ý rất thông-thường mà không thể dùng tiếng thông-thường hay là gốc nho dễ hiểu mà chỉ được. Bất đắc dĩ tôi phải dùng những gốc hán-tự khó hiểu cho những người không học chữ nho tí nào.
5. Khi nào ý không thông-thường nữa và thuộc vào bực cao, nếu dùng được chữ thông-thường càng hay, không thì cũng không ngại gì.
Cũng vì vậy mà tôi gọi spectre lumineux là quang-phổ, énergie potentielle là thế-năng. Chính những người Pháp, chưa học tới toán-học và vật-lý-học cao-cấp, cũng không hiểu những tiếng Pháp ấy là gì.
6. Nếu dùng tiếng thông-thường không dược và dùng gốc nho cũng không lợi, thì tôi dùng tiếng phiên-âm. Tôi dùng tiếng phiên-âm trong hai trường-hợp. Một là vì người ta đã dùng nó từ lâu, mà nay dùng không hại cho sự khoa-học. Ví dụ như tiếng pin là pile, bu-/ong là boulon. Trường-hợp thứ hai là đối với những tiếng rất chuyên-môn, mà ít dùng ngoài phạm-vi khoa-học, như những tên các đơn-vị, tên các đường, các mặt về toán-pháp cao-cấp, tên các hiện-trạng không tả ra bằng tiếng nho hay tiếng thông-thường được và nhất là tên tất cả các chất hóa-học. Ví-dụ : mét là mètre, gờ-rat là grade, at-môt-phe là atmosphère, cô-nic là hình conique, ca-thê-nô-ít là mặt cathénoide. êu-tec-ti là eutectie, a-cit là acide, pen-tan là pentalle.
Nhưng cũng không phải tôi phiên-âm tất cả những ý ở trong trường hợp ấy. Chữ nào mà đã thành quốc-tế, không thì ít ra cũng chung âm ở tiếng Pháp Anh, hay Pháp Đức, thì tôi mới dùng phương-sách ấy.
Trên nầy tôi nói về cách chia ý và chọn phương-sách. Nói tóm lại, nếu tiếng Pháp có nhiều nghĩa gần nhau, mỗi nghĩa tôi đặt một tiếng. Nếu những nghĩa ấy xa nhau, tôi chỉ đặt một tiếng. Tôi gắng dùng tiếng thông-thường để chỉ những ý rất thông-thường. Nếu không được thì tôi dùng gốc nho, tìm gốc dễ nhớ trước ; nếu cũng không được thì tôi dùng gốc khó. Lúc nào tiếng rất chuyên-môn và có tính-cách quốc-tế thì tôi dùng lối phiên-âm.
Nombre positif và nombre négatif, người Trung-hoa theo chữ gọi là chính-số và phụ-số. Ý chính và phụ không đúng, nên tôi đổi là số âm và số dương. Đó là một thí-dụ trong nhiều trường-hợp như vậy. Mỗi lúc nhận thấy chữ của người đặt không hợp lẽ, nhưng đặt ra đời trước nay quen dùng nên họ vẫn giữ, thì tôi không có lẽ gì giữ cái không hay của họ, nên tôi đổi.
Trong tập danh-từ nầy, tôi rất hay dùng cái gạch-nối. Vấn-đề cái gạch-nối đã có nhiều người bàn. Kẻ bảo nên bỏ vì sự in, sự viết lôi thôi. Kẻ bảo nên thông-dụng vì nó có lợi làm rời hẳn một nhóm chữ trong câu, cho nên nghĩa nó rõ ràng. Tôi cũng đồng ý với những người sau nầy. Tiếng nước mình còn vào trình-độ hàm-hồ, vì thế nên có nhiều câu có thể giảng ra nhiều nghĩa. Sự ấy đối với thơ không những không quan-ngại mà còn làm cho câu thơ mình nhiều khi ngắn ngủi mà hàm nhiều tứ. Nhưng đây là tôi nói đến việc thực-tế, như trong khoán-ước, trong văn-từ khoa-học. Có cách gì làm thêm rõ nghĩa câu văn thì ta nên làm ; nào cách dùng chữ, nào cách đánh dấu, ta đều nên để ý tới. Chắc ai cũng biết rằng văn nôm ta khi trước, cũng như văn chữ Hán, không chấm câu, nên những người chưa thông khó lòng mà hiểu được. Nay ta dùng chữ la-tinh có cái lợi vô ngần là có thể dùng được tất cả các dấu của họ. Như vậy, không có lý gì mà ta không dùng dấu gạch-nối. Còn sự ấn-loát hoặc viết, thì cũng có phiền phức thực, nhưng dấu nào cũng gây ra điều phiền phức như vậy. Dấu gạch-nối tuy nhiều hơn các dấu khác, nhưng thử xem các nước Trung-hoa và Nhật-bản họ còn bị nhiều điều bất-tiện bằng mấy ta nữa, mà họ cũng không bỏ lối chữ họ đi. Xin đừng tưởng họ dại hơn mình.
Còn có cách nữa là viết liền chữ lại. Tuy là có lợi lắm, nhưng sợ táo-bạo quá, ít người hưởng-ứng, nên tôi không dùng.
Nay mới bắt đầu dùng tiếng khoa-học một cách lan rộng ta còn mong sẽ dùng nó về giáo-khoa và thực-hành. Nên những chữ mới cần thấy rõ ràng trong câu viết, để câu thêm rõ nghĩa. Sau nầy, lúc tiếng đã phổ-thông thì bỏ một phần gạch-nối cũng chẳng hề chi.