Bài của Chu Hảo viết năm 2010, đăng ở trang Tuần Việt Nam, bây giờ trang này không còn nữa. Mình chỉ quan tâm đến gợi ý về đột biến thứ ba: các trí thức quan tâm và góp tiếng nói giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội.
Đất nước ta đã qua năm Kỷ Sửu với bao lận đận, khó nhọc đúng như mạng Trâu. Chúng ta thở phào nhẹ nhõm tiễn năm cũ để đón năm Canh Dần với kỳ vọng có những đột biến, dũng mãnh và linh hoạt ứng với bản mệnh của loài Hổ, để phát triển.
1- Đột biến quan trọng nhất mà chúng ta kỳ vọng là sự đổi mới về chất thế hệ lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ở các cấp từ địa phương đến trung ương. Việc đó sẽ diễn ra trong suốt năm tới để chuẩn bị cho Đại hội XI của Đảng vào đầu năm 2011. Đất nước ta đang đứng trước nhiều thử thách cam go, đòi hỏi phải tiến hành những cải cách và đổi mới sâu rộng hơn nữa.Trong bối cảnh hiện nay, mọi cuộc cải cách và đổi mới chỉ có thể được phát động từ trong nội bộ lãnh đạo Đảng. Chúng ta hy vọng rằng Đại hội Đảng các cấp sẽ áp dụng một thể thức bầu cử dân chủ và công bằng hơn nữa để lựa chọn được những nhà lãnh đạo chính trị tài ba. Đó là những người có tầm nhìn chiến lược; biết đặt lợi ích của Dân tộc lên trên hết, lên trên mọi chủ thuyết và mọi lợi ích nhóm xã hội; có tính chuyên nghiệp cao; và gương mẫu, đúng đắn…
Dư luận xã hội đang lo ngại sâu sắc khi thấy ngày càng trở nên phổ biến những hiện tượng trẻ không trọng già, trò không kính thầy… Nhưng sẽ là mối đe dọa nếu xã hội xói mòn niềm tin đối với tầng lớp lãnh đạo. Khủng hoảng niềm tin sẽ thực sự là một nguy cơ.
Chúng ta tin rằng nguy cơ này có thể được đẩy lùi nếu Đại hội XI của Đảng lựa chọn được đúng người để xếp vào đúng việc như nguyện ước của toàn dân.
2- Đột biến quan trọng thứ 2 mà toàn dân đang kỳ vọng là cuộc đấu tranh phòng chống quốc nạn tham những phải chuyển sang một giai đoạn mới, quyết liệt hơn và hiệu quả hơn. Chứ như hiện trạng thì người dân chưa tâm phục khẩu phục: Chống nửa vời, chống ngập ngừng,…cho nên quốc nạn có vẻ như không lui.Chúng tôi tán thành với nhiều ý kiến cho rằng cần gắn công cuộc đấu tranh phòng chống tham những với phong trào học tập tư tưởng, đạo đức của Hồ Chủ Tịch ( cần phải được duy trì thường xuyên, chứ không phải tổng kết xong là hết! ). Một trong những khía cạnh tư tưởng, đạo đức cần học tập nhất ở Cụ Hồ là đức tính “Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Chí công, Vô tư”. Học, và làm theo tấm gương đó để phòng chống tham nhũng chắc sẽ có ích lợi thiết thực hơn nhiều so với các hình thức “rất hình thức” khác như thi kể chuyện, thi ngâm thơ, thi sáng tác… về chủ đề này.
Chúng tôi kiến nghị: Hãy lấy thành tích cụ thể trong việc phòng chống tham những làm thước đo đánh giá hiệu quả của phong trào học tập tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu càng “chống” mà tham nhũng càng hoành hành thì xem ra ta chẳng học tập được gì ở Cụ Hồ cả. Và như vậy về thực chất ta đang tầm thường hóa tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, chứ không phải đang nâng tầm cái đó lên thành chủ thuyết phát triển như đang được thảo luận trong giới nghiên cứu lý luận.
3- Đột biến quan trọng thứ ba mà chúng ta kỳ vọng là sự lớn mạnh của tầng lớp trí thức. Mong sao những ai tự nhận mình là trí thức sẽ ý thức được một cách mạnh mẽ và sâu sắc vai trò và trách nhiệm xã hội của mình, tự khẳng định được mình, bằng những phẩm tính sau đây:
– Tiếp thu và truyền bá tri thức hoặc/và văn hóa.
– Sáng tạo các giá trị mới của tri thức hoặc/và văn hóa.
– Quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc.
– Dự báo và phản biện xã hội.
Xã hội nào muốn phát triển cũng cần phải có một tầng lớp tinh hoa như thế. Tầng lớp ấy sẽ tự hình thành và phát triển trong một xã hội dân sự lành mạnh, có đủ thiết chế dân chủ để đảm bảo độc lập tư duy, tự do sáng tạo, như tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa X. Chúng ta có quyền hy vọng rằng năm mới sẽ có những đột phá trong việc thực thi Nghị quyết ấy; bằng không, nó sẽ bị rơi vào quên lãng và không đi được vào cuộc sống.
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHH) đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự đột biến này. Chưa bao giờ uy tín xã hội của LHH được nâng lên một tầm cao mới như trong năm qua bằng các ý kiến phản biện đầy sức thuyết phục về các vấn đề hệ trọng của đất nước như: Dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, Đề án Xây dựng Nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, Chiến lược Phát triển Giáo dục 2009-2020.v.v… Các nhà khoa học của LHH có chính kiến riêng và sẵn sàng bảo vệ quan điểm của mình trước công luận. Điều đó đã tạo đà cho một bước tiến mới trong lĩnh vực dự báo và phản biện xã hội của cộng đồng các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam.
Ý kiến của các nhà khoa học mới được các cơ quan có thẩm quyền tiếp thu ở một mức độ rất khiêm tốn. Nhưng nếu các nhà khoa học không lên tiếng một cách có bản lĩnh và thực sự khách quan thì mọi việc đều có thể diễn ra xấu hơn. Mong sao các nhà khoa học của chúng ta không nản chí để góp phần tạo nên một bước nhảy vọt trong lĩnh vực hoạt động điển hình này của tầng lớp trí thức.
4– Đột biến thứ tư mà chúng ta kỳ vọng là công cuộc cải cách Giáo dục phải được thiết kế nghiêm chỉnh và thực thi một cách quyết liệt như tinh thần chỉ đạo nhất quán trong các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng suốt từ Đại hội VIII cho tới nay.
Hàng chục năm nay dư luận xã hội rất bức xúc về tình trạng rất không bình thường của hệ thống giáo dục. Đã có rất nhiều ý kiến, kiến nghị mạnh mẽ và thẳng thắn nhằm đổi mới một cách toàn diện và triệt để cơ cấu hệ thống, nội dung và phương pháp giảng dậy, cách thức thi cử, quản lý bằng cấp.v.v…nhưng xem ra tình hình không xoay chuyển là bao; có mặt còn lún sâu thêm vào khủng hoảng. Hết phong trào này đến phong trào khác, hết sáng kiến này đến sáng kiến khác, hết Đề án này đến Dự án khác …hình như nó chỉ làm cho tình hình rối thêm.
Có ý kiến cho rằng hãy đột phá ở hai đầu của hệ thống: cấp tiểu học và cấp đại học. Ở cấp tiểu học nên chăng nghiên cứu áp dụng lại mô hình Trường Thực nghiệm với Công nghệ Giáo dục của Nhà giáo Hồ Ngọc Đại, đã được khẳng định trong thực tiễn bắt đầu từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, tiếc rằng đã không được nhân rộng. Đằng sau chữ Công nghệ ( giáo dục ), nghe có vẻ hơi “cơ giới”, là một triết lý giáo dục sâu sắc nhằm dậy cho trẻ em biết tự trọng, tự tin, tư duy sáng tạo mà vẫn hồn nhiên.
Hãy lắng nghe tâm sự của Giáo sư Toán học Ngô Bảo Châu, mới được Tạp chí Time bình chọn là “người đã thực hiện một trong 10 khám phá khoa học xuất sắc nhất thế giới năm 2009”, một ứng cử viên sáng giá cho Giải thưởng FIEL về Toán học (tương tự như Giải Nobel về các ngành khoa học tự nhiên khác) trong năm 2010: “Cấp một, tôi theo học một trường với phương pháp giáo dục rất cấp tiến, tên là Trường Thực nghiệm, do ông Hồ Ngọc Đại khởi xướng…Tôi không muốn bàn về phương pháp giáo dục của thầy Đại nhưng tôi giữ được nhiều hồi ức đẹp và nhiều bạn bè từ trường Thực nghiệm. Học sinh Thực nghiệm chúng tôi dạo ấy bị học sinh trường khác gọi là gà công nghiệp. Cái phong cách gà công nghiệp, hơi ngây ngô, cũng có cái hay. Con gà ta khôn quá, giỏi né tránh cái khó khăn, nhưng có khi không biết đối mặt với cái khó khăn“.
Ngày nay Công nghệ Giáo dục của những năm 70,80 của thế kỷ trước chắc không hoàn toàn thích hợp với thời đại mới, nhưng cái triết lý cốt lõi của Trường Thực nghiệm vẫn còn nguyên giá trị.
Những nhân tài đỉnh cao như Ngô Bảo Châu chỉ có thể được đào tạo trong các trường Đại học nghiên cứu đạt chuẩn mực quốc tế. Ở cấp đại học khâu đột phá có lẽ chính là ở chỗ này: xây dựng một vài cơ sở Đại học nghiên cứu ( ĐHNC) chất lượng cao của Việt Nam .
Mô hình ĐHNC đã tồn tại từ lâu và đã rất thành công ở Hoa Kỳ từ giữa thế kỷ trước cho tới nay. Đó là nơi kết hợp một cách nhuần nhuyễn nghiên cứu khoa học với đào tạo. Cốt lõi của ĐHNC là các đơn vị Nghiên cứu – Phát triển tầm cỡ quốc tế do các giáo sư – nhà nghiên cứu lỗi lạc lãnh đạo với sự tham gia của các nghiên cứu viên xuất sắc là sinh viên sau đại học của trường (số này thường chiếm khoảng 50% tổng số sinh viên ).
Những Đại học có tên trong số 100 Đại học đứng đầu danh sách ở bảng xếp hạng của Tạp chí Thời đại ( THES ) hay của Đại học Giao thông Thượng Hải ( SJTU ) phần nhiều là các ĐHNC. Sức ép của toàn cầu hóa với nhu cầu hợp tác sâu rộng đi liền với cạnh tranh khốc liệt buộc các nền kinh tế phải có nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng sáng tạo và thích ứng linh hoạt. ĐHNC là nơi cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường lao động hiên đại.
Mươi năm gần đây, các nước phát triển cũng như đang phát triển đều coi việc xây dựng ĐHNC là một nhu cầu cấp bách ( xem, chẳng hạn, Những thách thức trong việc xây dựng Trường Đại học đẳng cấp Thế giới, Jamil Salmi, Ngân hàng Thế giới, 2009 ). Ở nước ta chưa có ĐH nào là ĐHNC, kể cả hai ĐHQG đã tồn tại từ 20 năm nay và ĐH Việt – Đức mới được thành lập tại Bình Dương ( là một trong bốn ĐHQT mà Bộ GD&ĐT đang xúc tiến ). Xây dựng một vài ĐHNC thực thụ ở quy mô nhỏ phải chăng sẽ là khâu đột phá trong quá trình chấn hưng hệ thống Giáo dục Đại học lạc hậu của chúng ta hiện nay.
Đột biến để phát triển là quy luật của Tiến hóa, là mệnh lệnh của cuộc sống.
Chu Hảo
Nguồn : TuanVietNam
Source: http://www.doimoi.org/detailsnews/948/338/dot-bien-de-phat-trien.html