Bài phân tích này hay:
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=3209636662417989&id=100001150602829
“LÊN GÁC RÚT THANG” VÀ CHUYỆN TRƯỜNG CHỌN (XỨ ANH)*
Đã lâu không viết trên trang cá nhân, nhưng một cuộc tranh luận gần đây thôi thúc tôi phải viết đôi điều về giáo dục. Một tiến sĩ kinh tế có tiếng trong nước khuấy động dư luận bằng ý kiến dẹp bỏ trường chuyên, mà cụ thể là trường Hà Nội Amsterdam, nơi anh từng theo học. Anh cho rằng trường chuyên là nguồn gốc của bất công, nhận nhiều đặc lợi từ ngân sách, một phần được đóng góp bởi người nghèo, mà không mang lại lợi ích đáng kể nào ngoài việc làm lợi cho con nhà giàu. Chủ đề này không mới. Trường chuyên, mỗi mùa tuyển sinh, lại trở thành tâm điểm hứng búa rìu dư luận. Có khác chăng năm nay chủ đề này được làm nóng bởi một người nhiều kinh nghiệm tư vấn chính sách, tập trung vào một tên trường cụ thể và giải pháp “tư nhân hóa” được hăng hái nhắc tới.
Dù muốn hay không phải thừa nhận trường chuyên là một chủ đề gây chia rẽ. Báo chí và mạng xã hội dễ hấp dẫn người đọc bằng những trải nghiệm, chia sẻ, xúc cảm của người nọ người kia và khoét sâu chia rẽ. Nhưng nhiêu đó chưa đủ thuyết phục để làm luận cứ cho việc phản đổi hay ủng hộ chính sách thải hồi và tư nhân hóa trường chuyên. Sẽ là khiếm khuyết lớn nếu trong cuộc thảo luận này, chúng ta không làm rõ những căn cứ nền tảng phía sau chính sách trường chuyên.
Bài khá dài, mọi người quan tâm có thể đọc chi tiết từng phần phía dưới và thảo luận thêm. Người viết tham chiếu đến hệ thống giáo dục đương đại ở Anh, nhằm làm rõ một số vấn đề chưa được lý giải rõ ràng xung quanh bức xúc trường chuyên ở Việt Nam, ví dụ:
– Xứ Anh có trường chuyên lớp chọn giống ta không? [phần 1]
– Chính sách giáo dục chia rẽ hai đảng nước Anh như thế nào? [phần 2]
– Tại sao cánh cửa trường chuyên cần rộng mở với con nhà nghèo? [phần 3]
– Vì sao khó có đồng thuận khi đánh giá sự hiệu quả và bình đẳng của trường chuyên? [phần 4]
– Tại sao cần đa dạng hóa giáo dục nhưng không nên tư nhân hóa trường chuyên? [phần 5]1. Trường chọn, trường chuyên, hay trường năng khiếu?
Trước khi thảo luận tôi phải tuyên bố xung đột lợi ích. Tôi cũng là một cựu sinh trường chuyên. Những trải nghiệm cá nhân của tôi tại trường chuyên chắc chắn sẽ không khỏi ảnh hưởng đến lập luận của tôi.
Một trong những thất bại khiến tôi ám ảnh nhất trong suốt thời gian ở trường chuyên là không biết phải dịch chính xác tên trường mình ra tiếng Anh như thế nào. Có quá nhiều cụm từ tôi được nghe qua như “grammar school, ”school for gifted children”, ”specialised school” nhưng không thực sự hiểu nội hàm bên trong và vì sao có nhiều thuật ngữ cho một thực thể đến thế. Băn khoăn này chỉ được giải tỏa khi tôi học tập và làm việc tại Anh và nhận ra:
“Nước Anh đương đại không có trường chuyên giống như ta.”
Giáo dục miễn phí và bắt buộc ở Anh chia làm 2 cấp: tiểu học và trung học. Đến bậc trung học (bắt đầu từ học sinh 11 tuổi) hệ thống này bắt đầu phân hóa.
Trong hệ thống trường trung học công lập, gần giống với trường chuyên của ta nhất có lẽ là “grammar school” mà tôi tạm dịch là trường chọn. Còn tồn tại rất ít trường như thế, cả xứ Anh (England) với 3,000 trường công, chỉ có 163 trường chọn, là các trường có danh tiếng, nhận rất nhiều ưu ái từ ngân sách nhà nước và có chất lượng vượt trội. Tuyển sinh ở các trường công khác chủ yếu dựa vào nhu cầu của phụ huynh và khoảng cách từ trường đến nhà (tương tự khái niệm đúng tuyến của ta). Nhưng nhu cầu vào trường chọn luôn quá tải và học sinh 11 tuổi phải vượt qua 1 kì thi tuyển cam go để được chọn vào trường.
Một hiểu nhầm phổ biến là phương Tây không có chạy trường, không có học thêm. Thực tế ở Anh, để giữ 1 ghế trong trường chọn, phụ huynh phải chạy marathon rất sớm, thuê gia sư phụ đạo cho con thậm chí 3 năm trước kì thi và đến ngày nộp hồ sơ vào trường chọn, người ta có thể thấy phụ huynh xếp hàng dài nhiều con phố. Nội dung thi phụ thuộc từng trường, không nằm trong chương trình đào tạo tiểu học thông thường mà chủ yếu về “năng lực”, bao gồm suy luận số, suy luận ngôn ngữ, suy luận hình ảnh, đọc hiểu, ngữ pháp và viết luận sáng tạo.
Trường chọn là di sản của những năm 60 thế kỉ trước khi mà trẻ bước sang tuổi 11 được phân loại vào trường chọn hoặc trường thường và kì thi năm 11 tuổi này thực sự là một bước ngoặt cuộc đời: trẻ học trường chọn sẽ dần dần bước vào đại học còn những trẻ khác sẽ vào trường nghề (hoặc trường đời). Ngày nay hệ thống trường chọn đã bị thu hẹp đáng kể (đỉnh điểm đã từng có tới hơn 1.200 trường chọn ở xứ Anh) và học sinh trường thường vẫn có rất nhiều cơ hội vào đại học. Tuy nhiên học sinh trường chọn, xét về tổng thể vẫn đạt kết quả cao hơn khi thi vào đại học và họ hiện diện nhiều hơn ở các trường hàng đầu như Oxford, Cambridge và trong tầng lớp tinh hoa, chính trị gia sau này.
Nhưng khác với trường chuyên của ta, trường chọn không đào tạo năng khiếu, không dạy chuyên và kết quả chủ yếu (KPI) được phản ánh ở lượng học sinh vào đại học. Đảng Lao động khi nắm quyền những năm đầu thế kỉ này, giới thiệu và phổ biến hệ thống trường specialised schools (tạm dịch trường chuyên). Đây là các trường công được nhận thêm tiền từ chính phủ để bổ sung vào chương trình đào tạo đại trà 1 hoặc 2 môn chuyên trong số các môn: Nghệ thuật, Kinh doanh, Cơ khí, Nhân văn, Ngoại Ngữ, Toán và Máy tính, Âm nhac, Nghệ thuật, Thể thao, Công nghệ. Tuy nhiên khác với các trường chọn, các trường này không tổ chức thi tuyển hoặc rất ít thi tuyển (10% chỉ tiêu) và không có danh tiếng lâu đời như trường chọn. Nước Anh đương đại không tổ chức mô hình trường công năng khiếu, với nhiệm vụ tuyển chọn, đào tạo học sinh tham gia các kì thi quốc tế.
So sánh như thế để thấy trường chuyên ở Việt Nam là một thực thể rất phức tạp. Với mỗi trường chuyên cụ thể, nó có thể là sự lai tạo của 1, 2 hoặc 3 yếu tố trong số: trường chọn, trường chuyên và trường năng khiếu. Nhiều trường chuyên trước đây có tên là trường năng khiếu dù việc đổi tên không làm thay đổi đáng kể bản chất của trường. Hiện nay trường chuyên cấp 2 rất khác với trường chuyên cấp 3.
Điều này làm cho thảo luận chính về sách trường chuyên rất phức tạp nếu không tách biệt được rạch ròi vì mỗi yếu tố này lại có gót chân A-sin riêng. Ví dụ một chỉ trích phổ biến (có thể hợp lý hoặc không) về việc đào tạo “gà chọi”, “học lệch”,… thực tế là chĩa vào đặc trưng “năng khiếu” của trường chuyên hơn là “chọn”, và phù hợp với các trường chuyên cấp 3 hơn là các trường chuyên cấp 2. Không thể mang một vài hiện tượng gây tranh cãi ở trường chuyên cấp 2 Hà Nội Amsterdam để quy nạp chính sách cho tất cả trường chuyên trên cả nước.
Tôi sẽ không phân tích sâu sự khác biệt giữa các trường chuyên ở Việt Nam trong bài viết này mà muốn tập trung vào khía cạnh “trường chọn”, vì nó là khía cạnh liên quan trực tiếp nhất đến khái niệm bình đẳng xã hội và lãng phí đầu tư công được dùng làm luận cứ cho “tư nhân hóa trường chuyên”.
2. Lên gác rút thang và đối đầu chính sách
Trường chọn là một trong những vẫn đề xung đột chính sách hàng đầu của hai chính đảng nước Anh. Ẩn sâu trong đó là xung đột về ý thức hệ. Một ví dụ tiêu biểu dưới post này là một video tranh luận giữa cựu thủ tướng Anh Theresa May và Lãnh đạo Đảng đối lập Jeremy Corbyn trong một phiên điều trần diễn ra vào mỗi trưa thứ 4 hàng tuần, trong đó bà May, đảng Bảo thủ khá vất vả trong việc bảo vệ đề án mở rộng trường chọn (grammar schools), trước những chỉ trích gay gắt từ ông Corbyn đảng Lao động. Phía sau hậu trường là lịch sử thăng trầm trong suốt hơn 70 năm của hệ thống trường chọn, khi bị thu hẹp gần mức xóa sổ, khi thì mở rộng phục hồi giữa sự thay phiên cầm quyền của đảng Lao động và Bảo thủ.
Tham chiếu đến tranh luận này không nhằm áp đặt tư duy giáo dục của một nước phát triển, mà để làm rõ nhiều khía cạnh chính sách mà ta chưa bàn luận thấu đáo trong khi nước bạn đã có một lịch sử tranh luận và phản biện kĩ càng.
Có lẽ đáng lưu ý nhất là khoảnh khắc bà May mang chuyện đời tư để phản bác ông Corbyn. Hai con người quyền lực nhất trong hai chính đảng nước Anh đều đã từng theo học ở trường chọn dù họ đang đứng ở hai bờ chiến tuyến khi định đoạt số phận hệ thống trường này. Bà May cáo buộc ông Corbyn “lên gác rút thang” và không quên mỉa mai việc quý tử của Corbyn cũng đã được gửi tới trường chọn dù ông bố nhân danh tầng lớp thợ thuyền lao động luôn phản đối hệ thống giáo dục “chia rẽ” này.
Năm 1999 là một khoảnh khắc sinh tử với sự nghiệp chính trị của Corbyn khi con trai ông chuyển cấp. Claudia Bracchitta, người vợ thứ 2 của Corbyn tuyên bố bà không chấp nhận gửi con đến một trường công “đúng tuyến” nhưng rất tệ theo kết quả kiểm định chất lượng 3 năm gần đấy. Cuối cùng con 2 người theo học trường Queen Elizabeth’s School, một trường chọn ở Bắc London [tất nhiên phải qua thi tuyển]. Cuộc ly hôn ngay sau đó đã cứu vãn sự nghiệp chính trị của Corbyn khỏi cái mác đạo đức giả theo kiểu Tuýp-phờ-nờ.
3. Trường chọn, phân tầng xã hôi, và dịch chuyển xã hội
Vấn đề gây chia rẽ sâu xa trong hệ thống trường chọn ở Anh (và tương tự với trường chuyên ở ta) là hệ thống nhị nguyên. Khi đặt ra trường chọn thì mặc nhiên thừa nhận sự phân loại trẻ thành 2 nhóm (giỏi và không giỏi), và bị chỉ trích là hình thái phân chia tầng lớp xã hội sớm ngay trên ghế nhà trường. Điều này sẽ tạo cho những đứa trẻ trường thường khi trưởng thành cảm giác bị đối xử như công dân hạng 2 và khó chấp nhận thành quả của những người được cho là hưởng nhiều ưu ái hơn họ bước ra từ trường chọn. Hệ thống trường chọn bị cáo buộc tạo nhân sinh quan méo mó, thiếu cảm thông khi trẻ đến trường và chỉ gặp những người giống mình (cùng gắn mác giỏi hoặc không giỏi) và mạng lưới quan hệ xã hội phiến diện này tiếp tục theo trẻ khi trưởng thành.
Ngay cả khi trẻ được chọn thuần túy dựa trên năng lực, một bài thi khách quan, thì con cái của gia đình có điều kiện cũng sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn bạn bè cùng trang lứa trong việc chuẩn bị cho kì thi (ví dụ ở Anh là chuyện học gia sư). Nhưng cần lưu ý là ở Anh trường chọn bị chỉ trích làm lợi cho tầng lớp trung lưu chứ không phải nhà giàu. Tầng lớp thượng lưu có một lựa chọn khác là trả tiền để gửi đến các trường tư, với mức học phí đắt đỏ, gấp 2,3 lần học phí đại học, để con cái họ được hưởng một chương trình giáo dục riêng, không bị trói buộc trong khuôn khổ chương trình phổ thông đại trà trường công.
Vấn đề này trở nên nghiêm trọng với Việt Nam vì kinh tế tăng trưởng nhanh, phân hóa giàu nghèo diễn ra chóng mặt, nhất là tại các đô thị lớn nhưng hệ thống hạ tầng không kịp đáp ứng. Hệ thống trường tư chưa kịp bám rễ và gây dựng danh tiếng như các trường chuyên. Con em nhà nghèo có năng lực muốn tiếp cận trường chuyên buộc phải ganh đua với con em gia đình trung lưu và cả thượng lưu nữa.
Những người Bảo thủ như bà May tin rằng trường chọn là giải pháp cho “dịch chuyển xã hội”. Thị trường bất động sản ở Anh phân chia tầng lớp xã hội rất sâu sắc: người giàu và người nghèo ở các khu vực khác nhau phân cách bởi giá nhà: người nghèo không thể đủ tiền để mua nhà cạnh người giàu. Và vì các gia đình luôn cân nhắc tới giáo dục cho con em mình khi mua nhà, chất lượng của trường học “đúng tuyến” phản ánh luôn vào giá nhà. Người nghèo chỉ đủ tiền mua nhà đúng tuyến vào các trường công chất lượng thấp trong khi họ không có tiền cho con học trường tư. Điều này tạo thành một vòng luẩn quẩn khi con em nhà nghèo khó có cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng tốt, và càng ít cơ hội thoát khỏi tầng lớp xã hội của bố mẹ mình khi trưởng thành. Vì thế dù có trường chọn hay không thì bản thân trường học đã vô tình phân hóa xã hội rồi: trẻ đến trường học cùng bạn có điều kiện kinh tế tương tự mình.
Việc tổ chức trường chọn biến lựa chọn giáo dục từ trục tọa độ một chiều (điều kiện kinh tế gia đình) thành mặt phẳng hai chiều với việc bổ sung trục tọa độ năng lực của trẻ. Dù hạn chế của các hình thức thi tuyền không ngăn cản hoàn toàn các trẻ có năng lực bình thường từ gia đình có điều kiện vào trường chọn, nhưng cũng đồng thời mở cánh cửa đón trẻ rất có năng lực từ các gia đình yếu thế.
Ngày nay thị trường bất động sản ở Việt Nam chưa phân hóa quá sâu sắc. Tại các đô thị, chúng ta vẫn có thể thấy trẻ từ các gia đình điều kiện khác nhau học chung một trường công đúng tuyến. Điều này ít đúng hơn nếu nhìn ở quy mô lớp học, khi tồn tại “lớp [phụ huynh] chọn”. Nếu nhìn rộng ra một chút có khoảng cách phân biệt rất lớn giữa chất lượng trường học ở nông thôn và thành thị, giữa trường học ở các siêu đô thị như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Mình và các đô thị khác. Không thể phủ nhận hệ thống trường chuyên có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy “dịch chuyển xã hội”. Hệ thống trường chuyên đại học quốc gia và đại học sư phạm thu hút học sinh từ các tỉnh thành khác. Một số học sinh khu vực nông thôn hiện diện ở trường chuyên (dù số lượng nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào cách tổ chức thi tuyển). Cùng với đà phát triển hiện nay, thị trường bất động sản sẽ sớm thúc đẩy việc phân khu phân vùng theo theo thu nhập và chúng ta sẽ sớm nhận thấy sự khác biệt giữa các trường công trong cùng đô thị và nhu cầu thúc đẩy “dịch chuyển xã hội” sẽ càng cần thiết.
Tại sao dịch chuyển xã hội quan trọng? Sâu xa hơn Đảng Bảo thủ ở nước Anh đề cao chế độ cử hiền (meritocracy): định mệnh của mỗi công dân quyết định bởi năng lực của bản thân họ và khuyến khích ý chí nỗ lực vươn lên ở tầng lớp xã hội thấp thay vì an phận dựa dẫm vào phúc lợi xã hội dành cho người thu nhập thấp. [Tư tưởng này bị đảng đối lập xem là tạo ra cạnh tranh thái quá phi nhân tính.] Học vấn tuy không phải là con đường tiến thân duy nhất nhưng lại là con đường tiến thân phổ biến, vì thế trường chọn có tính biểu tượng rất cao trong chế độ cử hiền đó và tác động trực tiếp đến công dân từ khi họ còn là trẻ nhỏ.
Với Việt Nam, chúng ta được thừa hưởng tư tưởng cử hiền từ lịch sử phong kiến. Trong chế độ phân chia giai cấp sâu sắc giữa vua quan quý tộc và bình dân, chế độ “khoa cử” đã đóng góp rất lớn cho “dịch chuyển xã hội” khi nó cung cấp phương tiện để con em bình dân thay đổi số phận của bản thân, gia đình và dòng tộc, nếu họ chứng minh được năng lực và đóng góp cho xã hội. Theo quan sát của cá nhân tôi trong các xã hội nhập cư thì những người đến từ các nước Á châu có chế độ khoa cử có ý chí vươn lên mạnh mẽ, cầu tiến hơn. Một số ý kiến cực đoan yêu cầu loại bỏ hoàn toàn hệ thống trường chuyên cần phải cân nhắc yếu tố liệu ta có cần duy chế độ cử hiền? Liệu trong quá trình phát triển xã hội sắp tới có cần tiếp tục khuyến khích và giáo dục tinh thần nỗ lực phấn đấu của trẻ nhỏ? Ý kiến cá nhân tôi thì không. Cái có lẽ cần hơn là cải tiến, cập nhật nội dung “khoa cử” cho phù hợp với thời đại và nhu cầu phát triển đất nước sắp tới [xin không lạm bàn trong bài viết này].
Một vấn đề khác là tôi không bắt gặp cụm từ “đào tạo tinh hoa” trên mặt báo chí Anh khi bàn về trường chọn. Có lẽ đó là sứ mạng của các định chế khác (trường tư, đại học tinh hoa,…). Trường chọn chỉ cung cấp các điều kiện tốt nhất để trẻ phát huy năng lực học vấn của mình, chuẩn bị cho đại học. Sau cùng trường chọn sẽ không thể đóng vai trò “dịch chuyển xã hội” nếu nó tạo ra một tầng lớp tinh hoa dựa trên địa vị trường học mà không thức đẩy người học nỗ lực phấn đấu suốt đời.
4. Ngân sách cho trường chuyên: Hiệu quả và bình đẳng?
Trên đây là một số thảo luận về mặt lợi và hại của trường chọn ở Anh, mà nhiều nội dung trong đó rất tương đồng với trường chuyên ở Việt Nam. Các phân tích này làm rõ nguyên nhân tồn tại và vai trò xã hội của trường chuyên cũng như cách thức tổ chức nó nhưng chưa liên quan trực tiếp đến vấn đề đầu tư công. Nên hay không nên tổ chức trường chuyên sử dụng ngân sách nhà nước và cơ sở nào để phân bổ nhiều nguồn lực cho trường chuyên. Trả lời câu hỏi này cần quay lại với 2 khái niệm kinh tế hiệu quả và bình đẳng.
Giáo dục công sử dụng ngân sách để đầu tư phát triển “nguồn vốn nhân lực” cho xã hội và nền kinh tế. Nếu thừa nhận học vấn là một loại năng lực và năng lực này khác biệt ở mỗi đứa trẻ, thì việc phân chia trẻ dựa vào khả năng và nhu cầu phát triển học vấn sẽ làm giáo dục hiệu quả hơn dựa vào chuyên môn hóa và lợi thế theo quy mô. Sẽ là lãng phí nếu đầu tư quá nhiều vào một trẻ không có nhu cầu hoặc khả năng phát triển học vấn tương xứng hoặc quá ít cho một trẻ có nhu cầu và khả năng phát triển học vấn cao. Đây là cơ sở lý luận cho việc ưu đãi trường chuyên so với các trường công khác.
Tuy nhiên lập luận về tính hiệu quả này có vài khiếm khuyết như sau.
Một là nó giả định việc tuyển sinh trường chuyên là hiệu quả trong việc phân loại năng lực trẻ. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào sự công tâm, khoa học của các hình thức tuyển đầu vào trường chuyên, mà trên thực tế tồn tại rất nhiều bất cập trong điều kiện xã hội Việt Nam. Ngoài ra nó liên quan đến rất nhiều câu hỏi chuyên môn: ở độ tuổi nào phù hợp đánh giá thiên hướng học vấn của trẻ và phải đánh giá nó như thế nào?
Hai là nó giả định rằng mọi năng lực đều được khuyến khích phát triển. Nghĩa là với trẻ hạn chế trong năng lực học vấn, xã hội đầu tư nhiều hơn để phát triển năng lực nổi trội khác của trẻ: nghệ thuật, thẩm mĩ, kinh doanh,… Việc tổ chức trường chuyên sẽ đặt ra câu hỏi khác cho hệ thống giáo dục: liệu sự phân loại năng lực học vấn có để lại sau lưng đứa trẻ nào bị tụt hậu vì năng lực nổi trội của chúng chưa được phát hiện và đầu tư tương xứng hay không?
Khía cạnh bình đẳng phức tạp hơn rất nhiều vì không có sự đồng thuận chung trong khái niệm. Tùy vào niềm tin cá nhân và ý thức hệ (ví dụ như tranh cãi giữa Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động), người ta sẽ hoặc tin vào bình đẳng kết quả hoặc bình đẳng cơ hội (**).Những người tin vào bình đẳng kết quả có xu hướng cho rằng trường chuyên ở Việt Nam và trường chọn ở Anh bất công vì có những đứa trẻ nhận được nhiều đầu tư công hơn những đứa trẻ khác
Những người tin vào bình đẳng cơ hội cho rằng trường chuyên và trường chọn công bằng chừng nào việc tuyển sinh hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào năng lực của trẻ mà không phụ thuộc vào các yếu tố xuất thân như địa vị, sắc tộc, màu da, giới tính, gia cảnh,…
Mỗi một niềm tin thuần túy trên đây đều có khiếm khuyết của riêng nó.
Quan niệm bình đẳng kết quả tương đối lỗi thời trong nền triết học hiện đại vì nó không thực tế với hoàn cảnh xã hội đương đại và là một ý tưởng đẹp nhưng viển vông. Tuy nhiên các triết lý về bình đẳng kết quả lại rất hấp dẫn bình dân đại chúng và là công cụ hữu hiệu để tập hợp sự ủng hộ số đông khuyến khích chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa cào bằng. Tuyên truyền bình đẳng kết quả, kết hợp với hệ thống phúc lợi hào phóng cho người nghèo, đánh thuế cao người giàu là liều thuốc phiện tạo ra sự đình trệ của các xã hội phát triển và kìm phanh tăng trưởng các nước đang phát triển.
Quan niệm bình đẳng cơ hội nghe có vẻ hợp lý nhưng lại ẩn chứa bên trong đó những hạt nhân của sự vô cảm, thiếu tình người. Không thể tách biệt hoàn toàn năng lực và yếu tố xuất thân. Liệu có thể ngăn cấm gia đình có điều kiện dành điều kiện phát triển thể chất, trí tuệ, giáo dục tốt cho con em họ ? Liệu có nên (và có thể) cấm dạy thêm, học thêm và gia sư ? Việc buộc một đứa trẻ thiếu thốn điều kiện cạnh tranh sòng phẳng với một đứa trẻ gia đình có điều kiện là một sự bất nhẫn lạnh lùng. Một trường hợp biên dễ thấy nhất là liệu có nên áp dụng bình đẳng cơ hội với trẻ khuyết tật? Hậu quả của bình đằng cơ hội là xã hội phân hóa giàu nghèo, thiếu bao dung.
May mắn thay là cuộc đối đầu ý thức hệ tàn khốc trong thế kỉ trước đã đặt xã hội loài người ngày nay ở một vị trí trung dung hơn giữa hai bờ vực quan niệm bình đẳng.
Ở một nước tư bản già như nước Anh, chính sách dưới bất kì chính đảng nào cũng đều cân nhắc cả 2 yếu tố bình đẳng kết quả và cơ hội dù rằng ý thức hệ của đảng cầm quyền sẽ kéo chính sách lệch hơn sang một bên. Khi Đảng Bảo thủ cầm quyền khuyến khích trường chọn thì họ cũng đồng thời giao kèo với các trường này một khoản thưởng hỗ trợ để trường ưu tiên một tỉ lệ chỉ tiêu cho trẻ từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Khi Đảng Lao động cầm quyền và loại bỏ trường chọn, họ đầu tư thêm vào trường thường để phát triển một số năng lực cá biệt của trẻ [dù rằng nó hiệu quả hay không lại là một câu chuyện khác].
5. Tư nhân hóa trường chuyên?
Vấn đề cuối cùng tôi muốn thảo luận là liệu có nên tư nhân hóa trường chuyên.
Việc tham gia của tư nhân vào giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là việc nên làm vì nó giúp huy động thêm nguồn lực giáo dục. Thêm vào đó khu vực tư nhân sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn và có thể kì vọng đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu giáo dục tốt hơn cũng như cung cấp nhiều sản phẩm giáo dục đa dạng và phong phú hơn.
Tuy nhiên khu vực tư nhân không có động lực đảm bảo tính công bằng xã hội và vì thế nhà nước không thể từ bỏ vai trò chủ đạo trong đào tạo bắt buộc và đào tạo phổ thông [kể cả ở các nước tư bản]. Việc tư nhân tham gia đào tạo chất lượng cao (và thu phí cao) vừa nâng cao tính hiệu quả, vừa thúc đẩy sự công bằng xã hội vì thu hút bớt nhu cầu giáo dục của gia đình thượng lưu (sẽ gia tăng nhanh cùng với tiến trình phát triển kinh tế) và tạo nhiều cơ hội hơn cho con em gia đình trung lưu và yếu thế tiếp cận các trường chuyên công lập.
Tuy nhiên bán trường chuyên công lập cho tư nhân nhân danh công bằng xã hội là một ý tưởng khôi hài kể cả khi giả định hệ thống thể chế giám sát là hoàn toàn liêm chính và minh bạch. Cái mà khu vực tư nhân cần là cởi trói cơ chế chính sách và môi trường cạnh tranh lành mạnh chứ không phải ưu đãi đất, vốn, nhân lực hay tài sản vô hình giống như tư duy ưu đãi cho các tập đoàn nhà nước thập kỉ trước.
Vấn đề học bạ toàn điểm 10 xếp hàng trước cổng trường chuyên và các bức xúc xung quanh lẽ ra cần phải diễn giải tường minh như sau:
– Một là đang thiếu hụt trầm trọng nguồn cung cho nhu cầu đào tạo phổ thông chất lượng cao cho tổng thể xã hội.
– Hai là trẻ từ các gia đình trung lưu và đặc biệt gia đình hoàn cảnh khó khăn ngày càng khó tiếp cận trường chuyên và các hình thức đào tạo chất lượng cao khác.
– Ba là cần xem xét đánh giá lại phương thức tuyển sinh vào trường chuyên để đảm bảo công bằng xã hội (có tính đến cả bình đẳng kết quả và bình đẳng cơ hội) và nâng cao hiệu quả giáo dục.
– Bốn là hệ thống giáo dục phổ thông chưa theo kịp sự phát triển của xã hội và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển các năng lực khác ngoài năng lực học vấn của trẻ nhỏ. Nhiều năng lực bị xem nhẹ ngày nay sẽ thiếu hụt cho sự phát triển kinh tế tương lai ví dụ kinh tế sáng tạo, kinh tế số,…
– Năm là cần xem xét lại nhu cầu đào tạo năng khiếu trong hệ thống trường chuyên. Trong bối cảnh hiện đại, đào tạo phổ thông chất lượng cao trong hệ thống công lập không nhất thiết gói gọn trong mục tiêu đào tạo năng khiếu và cần được mở rộng nội hàm.
Nếu diễn giải vấn đề một cách tường minh như vậy, các nhà quản lý sẽ dễ dàng tìm được một giải pháp Pareto gia tăng phúc lợi xã hội tổng thể mà không phải hi sinh lợi ích của một số cộng đồng để đổi lại lợi ích riêng của một nhóm nhỏ thiểu số.
Luân Đôn, mùa Covid, 2020
[Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân, và không phản ánh quan điểm nơi tôi công tác]
*Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UK) bao gồm 4 xứ: xứ Anh (England), Northern Ireland, Wales và Scotland. Trường chọn (grammar school) chỉ còn tồn tại thực chất ở xứ Anh và Bắc Ai-len.
** Vì lí do sư phạm, bài viết này sử dụng khái niệm bình đẳng cơ hội hình thức (formal equality of opportunity) khi so sánh đối lập với bình đẳng kết quả (equality of outcomes). Các chỉ trích trong bài cho hình thức bình đẳng này không hàm ý áp dụng cho tất cả các hình thức bình đẳng thực chất (substantive equality of opportunity) khác. Khái niệm bình đẳng nói chung và bình đẳng cơ hội nói riêng là một lĩnh vực chưa đạt được đồng thuận trong giới nghiên cứu và đang tiếp tục phát triển. Cám ơn các trao đổi từ TS Thang Dao.