NGUYỄN HẢI HOÀNH
Bài trên Văn hóa Nghệ An, Chủ nhật, 12 Tháng 5 2019
Đạo Phật cho rằng bất cứ sinh linh nào chịu khó tu hành tập luyện thì cũng có thể đắc đạo và thành Phật, tức Bậc Giác Ngộ. Vì thế không ai có thể biết xưa nay từng có bao nhiêu vị Phật cùng các chức vị của họ. Có lẽ Bồ Tát là những vị Phật gần dân nhất, “con người” nhất, như Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát. Còn có giải thích: Bồ Tát là người đã đắc đạo có thể lên ngôi Phật nhưng tự nguyện không nhập Niết Bàn, không lên cõiTây phương cực lạc hưởng thú vui nhàn hạ mà nán lại hạ giới để cứu giúp chúng sinh chưa giác ngộ đang còn mê hoặc chìm đắm trong bể khổ.
Từ Bồ Tát thường được dùng để gọi những người có lòng nhân ái vị tha như trời biển. Dân ta có câu tục ngữ “Của người Bồ Tát, của mình lạt buộc”.
Bồ Tát là từ Hán – Việt (từ gốc Hán đọc bằng âm tiếng Việt) của 菩薩, viết tắt của Bồ Đề Tát Đóa菩提薩埵, do người Hán dịch âm từ Phạn ngữ Bodhisattva – ghép bởibodhi (enlightenment: giác ngộ) vàsattva(essence: bản chất; thể tồn tại trừu tượng).
Theo nhà Phật học Edward Conze, Bồ Tát là vị Phật có ba đặc điểm:
(1) Khao khát đạt được sự giác ngộ hoàn toàn như Phật Tổ;
(2) Giàu lòng từ bi và trí tuệ;
(3) Có mối quan hệ với những người thường và các suy nghĩ, cảm xúc như họ [1].
Với cách hiểu như trên, có thể suy ra trên thế gian đã, đang và sẽ có không ít vị Bồ Tát thực sống lẫn với mọi người, chỉ có điều thiên hạ không nhận ra hoặc biết quá ít về họ – vì họ là Bồ Tát mà thôi!
Theo kẻ thiển cận viết bài này, nước ta nửa đầu thế kỷ XX từng có một người hội đủ ba đặc điểm nói trên, một vị “Đại Bồ Tát bằng xương bằng thịt hiện thực giữa cõi đời“, như lời của học giả – thiền sư Lê Mạnh Thát [2].
Nhân vật ấy đã đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tên tuổi và sự nghiệp của ông sống mãi với dân tộc. Ông để lại một di sản văn hóa vô giá ngót trăm tác phẩm và nhiều học trò, trong đó có Ni sư Thích Đàm Ánh, nguyên trụ trì chùa Phụng Thánh (ngõ Khâm Thiên, Hà Nội) và nguyên Đại tá Trần Việt Quang ở Bộ đội Thông tin.
Vị Bồ Tát ấy là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha(1902-1954), quê xóm Cam Đường, làng Trung Tự, phường Đông Tác, nay là địa bàn tổ dân phố 81, phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.
Giới Phật Tử biết ông dưới bút danh Thiều Chửu 笤帚– Cái chổi lau dùng để quét sạch bụi bặm trong lòng mình và mọi thứ rác rưởi trên đời – một cái tên khiêm nhường mà cao cả xiết bao!
Cư sĩ thuộc đời thứ XIV dòng họ Nguyễn Đông Tác có mặt tại thành Thăng Long từ cuối thế kỷ XV. Tổ ba đời ông là Tiến sĩNguyễn Văn Lý (1795-1868), tục gọi Nghè Lý, nhà văn hóa nổi tiếng đất Hà Thành, bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan.
Cha ông là Cử nhân Nguyễn Hữu Cầu(1879-1946), đồng sáng lập viên phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT), từng bị đày ra Côn Đảo nhiều năm vì “tội” chống Pháp, một “đại sĩ phu” (Une Grande Figure de Lettré), như cách gọi của học giả Nguyễn Văn Tố [3]. Anh ruột ông là nhà giáoNguyễn Hữu Tảo (1900-1966), trước 8/1945 là Giáo sư thượng hạng, hạng nhất bậc tiểu học ngạch Âu cũ [4], thầy học của Nguyễn Tuân, Trường Chinh, Văn Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Văn Lợi v.v…
Vì sao Hữu Kha không kế tục truyền thống văn nhân ấy của gia tộc mà chọn con đường làm một cư sĩ khổ hạnh suốt đời chỉ lo cứu giúp người cùng khổ? Hãy nhớ lại một câu các Phật Tử hay nhắc tới: “Có một người sinh ra trên thế gian này là vì hạnh phúc của muôn người…” [1]
Cậu bé Hữu Kha bẩm sinh đa sầu đa cảm lại lớn lên dưới ảnh hưởng sâu sắc của bà nội giàu lòng nhân ái và người cha say sưa hoạt động yêu nước chống Pháp. Những đêm cùng anh ruột đun nước pha trà điếu đóm cho các cuộc họp kín của nhóm sĩ phu ĐKNT tại nhà mình, rồi lại được đọc nhiều “Tân thư” và tài liệu cách mạng do cha làm ở Ban Tu Thư ĐKNT mang về đã sớm hun đúc trong cậu bé ý chí yêu nước thương nòi và căm ghét thực dân phong kiến đến cực độ.
Ông kể về tuổi thơ của mình:
“Nhà nghèo quá, chị em tôi 7-8 tuổi đã phải chăn bò cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng thì mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được ba ngày mẹ đã phải đi làm đồng. Tôi suốt ngày đứng rình ở cổng nhà pha [tức nhà tù Hỏa Lò] Hà Nội, hễ thấy bố bị giải sang Tòa án thì chạy theo, bị lũ mật thám đánh rất đau. Tôi căm thù tủi nhục nhưng thân hèn biết làm gì?
Đọc truyện ông Gia Phú Nhĩ [5]thấy ông nói với bạn làm mối vợ cho mình rằng “Ý Đại Lợi[tức nước Italy] là vợ, Ý Đại Lợi là con”, từ đó tôi nảy ra ý muốn học ông ở điểm đó… Sau đấy tôi không hề nghĩ tới cái đời riêng của tôi nữa. Người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, họ chưa biết nỗi uẩn khúc của tôi từ thủa còn thơ dại”. [6]
Năm 14 tuổi, một lần đi chơi chợ Hà Đông về rẽ vào nghĩa trang bên đường thấy khu lăng mộ xa hoa đồ sộ của Tổng đốc Lê Hoan (thời ấy bị coi là kẻ tổ chức vụ hạ sát cụ Đề Thám), Hữu Kha làm bài thơ chữ Hán:
清晨吊九原 種種幽情喧
世態競富貴 人情趨銀仙
公仇拜額上 義務放心邊[6]
Dịch âm Hán – Việt là: “Thanh thần điếu cửu nguyên/Chủng chủng u tình huyên/Thế thái cạnh phú quý/Nhân tinh xu ngân tiên/Công cừu bái ngạch thượng/Nghĩa vụ phóng tâm biên”.
Tạm dịch: Tinh mơ qua bãi tha ma/Âm hồn trăm họ kêu la vang trời/Bon chen phú quý sự đời/Lòng người mê mẩn hướng nơi đồng tiền/Thù chung: trên hết, đưa lên/Nghĩa vụ: canh cánh không quên trong lòng.
Năm sau, Hữu Kha tụng kinh siêu độ trong lễ tang bà nội, khi đọc đến câu Phật nói “Nhân dân là cha mẹ bao đời của ta, ta phải hiếu kính cúng dàng; muôn vật đều có tính Phật, cũng bình đẳng với ta; ta phải làm cho mọi người đều bình đẳng” cậu bé xúc động thổn thức thề suốt đời theo Phật để cứu khổ cho muôn người.
Quyết tâm ấy càng mạnh hơn sau khi Hữu Kha mục kích cảnh nhục nhã: Mẹ ông vì cần vay tiền làm vốn cho ông đi bán hàng rong mà phải lễ lạt cho lý trưởng bảo lãnh và chầu chực như kẻ ăn mày: “Tôi thề rằng đời tôi hễ ai thiếu thốn muốn nhờ tôi thì dù họ chưa hé miệng, tôi đã vâng. Tôi còn một bát gạo mà ai đói hơn tôi cũng nhường ngay, thà tôi chịu nhịn” [6].
Mười sáu tuổi, Hữu Kha một mình xuống Đồ Sơn bán thuốc Nam và bánh kẹo kiếm sống. Vì tin người nên mất hết vốn, ông phải làm phu kéo thuyền, đẩy xe, thậm chí đi ăn xin. Hai năm trời cực nhục ấy khiến ông ngày càng tin yêu triết lý cứu khổ cứu người của đạo Phật.
Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu ra tù, Hữu Kha về giúp cha mở hiệu thuốc “Lợi Nhân Đường” ở Ngã Tư Sở. Hiệu đông khách nhưng “tình thương người bởi thương thân kia đã sâu lắm nên tôi chỉ giấu giếm bố giúp đỡ người nghèo”, vì thế ba năm trời hai bố con chỉ đủ ăn chẳng thừa đồng nào.
Bù lại, ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị lương y suốt đời chữa bệnh không công. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu (Tịnh: trong sạch, Liễu: hiểu biết), bắt đầu tự học nghĩa lý đạo Phật, học ngoại ngữ, dịch sách báo. Mười tám tuổi, ông đã có bài đăng trên tạp chí Nam Phong, tờ báo có yêu cầu rất cao về học thuật, do học giả Phạm Quỳnh làm chủ bút.
Mười chín tuổi, Tịnh Liễu đi khắp nơi tham thiền vấn đạo, gặp các vị chân tu nổi tiếng như Hòa thượng (HT) Thích Thanh Hanh ở Lạng Giang, Thích Thanh Thuyền ở Nam Định, cư sĩ Lê Đình Thám ở Huế… Qua chuyến khảo sát này ông nhận ra xu hướng suy tàn của Phật Giáo nước nhà:
“Khi đi sâu vào nhà chùa, tôi thấy sự tổ chức ở chùa không đúng một chút nào với lời Phật dạy; trái lại hoàn toàn dập theo khuôn khổ phong kiến chia giai cấp rất khắc nghiệt, hưởng thụ xa xỉ, bỏ mất hẳn cái tinh thần trọng lao động, không theo quy chế ‘Một ngày không làm một ngày nhịn ăn’ của Tổ Bách Trượng.
Lại còn dùng thuật mê tín vẽ ra đàn tràng cúng bái, đục khoét nhân dân để sống một đời nhàn rỗi. Vì thế tôi nhất định không theo chế độ đó; cho tới ngày nay tôi cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi. Hơn nữa, nếu có dịp, tôi sẽ đánh đổ cái chế độ mục nát ấy. Sau đó tôi theo đuổi việc chấn hưng Phật Giáo” [6].
Qua đây, ta hiểu vì sao Nguyễn Hữu Kha không vào chùa làm sư, mà chỉ làm cư sĩ tu tại gia, suốt đời vừa lao động kiếm sống vừa hoằng dương Phật Pháp. Vị cư sĩ này khác người ở chỗ không vợ con, suốt đời trường trai mà mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng giờ Ngọ, mặc nâu sồng, đi guốc mộc tự đẽo lấy, đêm nằm trên tấm phản kê dưới nền nhà, không màn, mùa rét đắp chiếc chăn sợi mỏng.
Vai trò của cư sĩ Phật Giáo được dân ta nói tới trong câu ca Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa lưu truyền bao đời nay. Giới cư sĩ từng góp phần quan trọng trong sự hình thành và phát triển Phật Giáo ở Ấn Độ. Thành viên Ban Trị sự Hội Phật Giáo Bắc Kỳ thành lập năm 1934 hầu hết là cư sĩ. Nhà lãnh đạo Hội Phật Giáo Trung Quốc thời gian 1953-2000 cũng là một cư sĩ – ông Triệu Phác Sơ ( 趙樸初1907-2000), một nhà Phật học uyên thâm, nhà thơ và thư pháp nổi tiếng.
Do không mất thì giờ vào các nghi thức tôn giáo buộc phải làm ở chùa nên cư sĩ có điều kiện trau dồi kiến thức nhiều mặt, nghiên cứu triết lý đạo Phật một cách khách quan, từ nhiều góc độ. Vì sống giữa lòng dân nên họ có cùng suy nghĩ, tình cảm của những người bình thường, trở thành cầu nối giữa Tăng đoàn với nhân dân.
Năm 26 tuổi Nguyễn Hữu Kha lấy bút danhLạc Khổ (Vui trong cảnh khổ), bắt đầu dịch kinh Phật ra Quốc ngữ, vì ông thấy ta toàn tụng kinh chữ Hán nên chẳng hiểu gì. Dịch kinh đúng là khổ thật, cực kỳ khó nhọc, phải giỏi cả Hán học, Phật học, nhưng ông quyết làm với suy nghĩ: “Vì kém tinh thần tự lập cho nên ta cứ vùi đầu với kinh chữ Hán, ít người dám dịch kinh sang tiếng ta. Kinh chữ Phạn dịch ra chữ Hán được, thì dịch ra chữ ta cũng được chứ sao! Chữ Quốc ngữ của ta rất dễ phổ biến, dịch âm lại đúng hơn chữ Hán” [7].
Các cố gắng ấy của Thiều Chửu được thể hiện trong sách “Tuyển tập gồm 16 cuốn kinh cơ bản do Thiều Chửu dịch” được nhà xuất bản Tôn Giáo in lại năm 2002.
Về sau, khi bà chị ruột túng bấn, ông thôi việc hiệu thuốc để giúp chị mưu sinh bằng nghề cho thuê đòn tang. Hai mươi tám tuổi, ông giúp cậu em họ kiếm sống bằng cách cùng mua một máy in dập chân, thuê nhà số 36 phố Sinh Từ, Hà Nội (nay là phố Nguyễn Khuyến) mở hiệu sách Hòa Ký, lấy tên từ phương châm “Lục Hòa” của Phật. Hai anh em in ấn, xén giấy, đóng sổ sách, bán sách vở, sống tằn tiện nhưng vẫn cưu mang người thất nghiệp, trong đó có ông Lưu Văn Lợi (1913-2016), sau là Trưởng ban Biên giới Chính phủ ta.
Năm 1932, ông tự in tác phẩm của mình là bản dịch “Kinh Vô Thường”; năm 1934, dùng bút danh Thiều Chửu in “Khóa Hư Kinh dịch nghĩa” – bản dịch ra Quốc ngữ tác phẩm “Khóa Hư Lục” nổi tiếng của Trần Thái Tông, nói về lẽ hư không trong đạo Phật.
Học giả – thiền sư nổi tiếng thế giới Thích Nhất Hạnh (tức Nguyễn Lang, 1926-) nhận xét: “Thiều Chửu là một cây bút rất vững chãi và sâu sắc; căn bản Hán văn của ông rất vững; văn Khóa Hư là văn biền ngẫu rất khó dịch nhưng bản dịch của ông rất đặc sắc, đọc êm tai, nghĩa lý khá rõ ràng” [8].
Nguyễn Hữu Kha suốt đời chưa ngày nào được đi học ở trường. Thủa bé được bà nội dạy chữ Hán và Quốc ngữ; sau đó chỉ nhờ công phu tự học mà ông sớm tinh thông Tứ Thư Ngũ Kinh, đến tuổi “tam thập nhi lập” đã thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, và đặc biệt am hiểu Hán học, Phật học.
Suốt đời học hỏi, lao động chân tay và trí óc, miệng nói tay làm không lúc nào ngơi, cho nên việc gì ông cũng giỏi, kể từ cày cấy đến viết lách. Ông dùng thuốc Nam chữa khỏi bệnh cho nhiều người, và viết loạt bài “Bà Lang Nhà” rất thú vị đăng nhiều kỳ trên báo Đuốc Tuệ.
Ni sư Đàm Ánh có câu cửa miệng “Chẳng ai giỏi bằng thầy tôi” và hay kể: Thầy tôi đỡ đẻ mát tay đến mức nhiều gia đình đến nhờ trước hàng tháng.
Việc viết sách báo mang lại thu nhập cao nhưng ông sống rất khổ hạnh, tiền kiếm được đều đem nuôi trẻ mồ côi, giúp người nghèo khổ. Hồi đi tản cư kháng chiến, ông dẫn đầu phá rừng trồng khoai sắn nuôi sống cả trại Tế Sinh gồm mấy chục thanh thiếu niên.
Có thời kỳ “40 người mỗi bữa chỉ có 4 bơ gạo nấu với lá rau khoai lang” thế mà ông kiên quyết trả lại mấy lạng vàng (tiền xuất bản các tác phẩm của ông tại nhà in Đuốc Tuệ) do Thượng tọa Thích Tố Liên từ Hà Nội gửi ra [6].
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật Giáo, Thiều Chửu từng cộng tác với một số Phật Tử chân chính. Năm 1933, Sa môn Thích Trí Hải (1906-1979) từ Hà Nam lên Hà Nội vận động thành lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ đã đến ngay hiệu Hòa Ký bàn bạc với Nguyễn Hữu Kha.
Hồi ký của HT Thích Trí Hải kể: “Hai người chúng tôi vừa gặp nhau mà tưởng như đã quen nhau từ bao đời… Cuối năm 1933, hàn thử biểu ở Hà Nội xuống tới 7-8 độ mà tôi và ông Kha chỉ đắp chung một cái chăn sợi NamĐịnh mỏng nằm trên chiếc chiếu trải trên nền nhà phố Sinh Từ”.
Hai ông góp công lớn trong việc sáng lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ (1934). Nhưng khi Hội mời vào Ban Trị sự thì Thiều Chửu lại do dự vì thấy Ban này có mấy vị quan cai trị, như ông Nguyễn Năng Quốc, nguyên Tổng đốc tỉnh Thái Bình. Sau cùng ông nhận lời với ý nghĩ có thể lợi dụng Hội này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa.
Ông đề nghị Hội cho lập nhà in. Hội đồng ý và giao ông quản lý nhà in Đuốc Tuệ; ông đem máy in của mình vào làm việc không công. Biết ông liêm khiết, Hội giao ông phụ trách tài chính của Ban Hưng công chùa Quán Sứ (1938-1942); qua đó ông có đóng góp lớn cho công trình này. Nghe nói ông là tác giả đôi câu đối chữ Quốc ngữ ở cổng chùa Quán Sứ.
Thiều Chửu trở thành một trong hai cây bút viết nhiều nhất trên tuần báo Đuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của Hội, nhằm tuyên truyền Phật Giáo, phê phán tệ mê tín dị đoan trong Phật sự. Từ năm 1943, ông được cử làm Trưởng ban biên tập báo này, thay ông Trần Trọng Kim nghỉ hưu.
Năm 1943, ông viết sách “Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính” dùng triết lý Phật Học giải thích rất hay và dễ hiểu nội dung truyện. Ông coi tập thơ Nôm khuyết danh đó là kinh Phật của Việt Nam. Có tài xuất khẩu thành chương, ông sáng tác miệng nhiều thơ ca, sau này được nhà thơ Đinh Công Vĩ hết lời ca ngợi trong bài “Cư sĩ Thiều Chửu với cả một trời thơ” [2].
Sau 30 năm cầm bút, Thiều Chửu để lại ngót 100 tác phẩm viết và dịch [2]; đầu tiên là “Phép nuôi con” (1926). Đáng kể hơn cả có “Tự điển Hán Việt” xuất bản năm 1942 tại Hà Nội, tái bản mấy lần tại Sài Gòn, tới nay đã tái bản mấy chục lần, rất được hoan nghênh.
Học giả Lê Mạnh Thát nói: “Những người Việt học Hán văn không thể không cúi đầu tri ân công trình văn hóa bất hủ này” [2]. Website “Thư viện Hoa Sen” đánh giá đây là bộ sách tiêu chuẩn về từ Hán-Việt cho nhiều thế hệ người Việt Nam từ hơn 60 năm qua. Về sau, sách được một số người Việt ở nước ngoài biên soạn thành “Tự điển Hán Việt Thiều Chửu điện tử” và phổ biến miễn phí trên mạng Internet.
“Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX” xuất bản năm 1952 – tác phẩm cuối cùng, viết bằng máu và nước mắt như lời học giả Vũ Tuấn Sán [2], thể hiện quan điểm của một Phật Tử chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số Tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc.
Thiều Chửu viết về họ như sau:
“Người tín ngưỡng Phật Giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình, mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới. Hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn dung thân dễ dàng qua ngày. Hạng dưới nữa lấy chùa chiền làm chỗ buôn bán kiếm chác không từ một sự đê hạ nhơ nhớp nào không làm… Sự kiếm tiền bằng cách buôn thần bán Phật làm cho người đời ghê tởm mà phê bình “Miệng Phật tâm xà”, “Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối”… đều là những lời phê bình đúng sự thật” [9].
Sau khi phân tích các nguyên nhân gây ra tình trạng suy đồi đó, ông đề nghị Tăng sĩ phải:
– Đoàn kết lại trong một tổ chức Phật Giáo thống nhất;
– Lao động tự nuôi thân bằng các nghề làm ruộng, công nghệ, giáo dục, y tế;
– Học và thực hành Phật Giáo Nhân Gian;
– Góp tài lực cải thiện đời sống nhân dân.
Những ý tưởng này cho tới nay vẫn còn nguyên tính hiện thực trong công cuộc phục hồi Phật giáo chân chính. Không ít nhà chùa hiện nay sống xa hoa bằng tiền dân chúng cúng dàng. Đi tu trở thành nghề kiếm bạc tỷ. Nhà tu hành không còn trai giới mà sống cuộc đời phàm tục, thậm chí dung tục, mất hết tín ngưỡng thiêng liêng.
Sách này ông viết tại chiến khu Việt Bắc và lời lẽ phê phán rất gay gắt, thế mà nhà in Đuốc Tuệ ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm đóng vẫn dám in và xuất bản ngay rồi phát hành trong cả Bắc Trung Nam, điều đó nói lên sức thu hút nhân tâm của Thiều Chửu…
(còn nữa)
Ghi chú:
[1] Edward Conze: Lược sử Phật Giáo, Nxb Tổng hợp TPHCM.
[2] Nguyễn Đại Đồng: Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2008.
[3] Chương Thâu và Hồ Anh Hải: Nguyễn Hữu Cầu, chí sĩ yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội 2007.
[4] “Từ Bộ Quốc gia Giáo dục đến Bộ Giáo dục và Đào tạo”, Nxb Giáo dục 1995, tr.14.
[5] Tức Camillo Benso Cavour (1810-1861), nhà lãnh đạo phong trào thống nhất nước Ý, Thủ tướng đầu tiên của nước Ý thống nhất (1861).
[6] Tự Bạch của Thiều Chửu (bản chép tay năm 1954).
[7] Thiều Chửu: Lời tựa bản dịch kinh A Di Đà.
[8] Nguyễn Lang: Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập III, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1994.
[9] Thiều Chửu: Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2002.