Bài của anh Nguyễn Ái Việt kể chuyện điển tích hay. Mình đã từng thấy các câu thơ đó rồi, nhưng đọc bài này mới rõ.

Lạc Dương thân hữu như tương vấn

Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Đan tâm

   Hôm qua  kỷ niệm ngày sinh của cụ Hồ. Cụ sinh năm 1890 trạc tuổi ông nội tôi. Tuy vậy ông tôi là bạn vong niên với cụ Sắc vì ngày xưa đồng khoa, dù tuổi chênh lệch nhiều vẫn là bạn xưng bác tôi ngang hàng. Chẳng hạn ông tôi vì đỗ sớm, nên dù nhỏ tuổi hơn cụ Tạ Quang Đệ, thân sinh ông Bửu và ông Đạm nhưng vì là đồng khoa nên sau này tuy về mặt bà con ở vai dưới, nữ sĩ Sầm Phố luôn kính trọng gọi ông tôi là “ông”.

    Tình cờ ngày 19/5 năm nay đọc di cảo thơ văn của dòng họ Nguyên Đức (ông tôi là cháu ngoại cụ Hành Tẩu Nguyễn Đức Công) đọc được bản dich của  bài thơ Đường của Vương Xương Linh “Phù Dung Lâu tống Tân Tiệm) do ông tôi dịch. 

     Bài này thì quá nổi tiếng tôi sẽ không phẩm bình ở đây. Đáng chú ý là hai câu cuối

      Lạc Dương thân hữu như tương vấn

      Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ

Lạc Dương là kinh đô nhà Đường. Có lẽ me xừ Tân Tiệm được bổ làm quan ở kinh đô. Vương Xương Linh châc vốn ở Lạc Dương bị biếm về phương Nam nhớ Lạc Dương và bạn bè xướng hoạ nên lưu luyến đưa tiễn và gửi tâm sự.

    Băng tâm là tấm lòng như băng thường được ví với sự trong sạch cao quý. Một nghĩa khác là sự lạnh lùng kiên định ngạo nghễ không gì lay chuyển được. Ngọc hồ nhiều người giải thích sai là đáy hồ trong như ngọc, hình ảnh thì đẹp nhưng sai ý tác giả. Hồ đây là hồ rượu bằng ngọc. Ý nói tấm lòng thanh khiết nay còn nguyên nhưng nay băng giá mượn rượu để làm nơi ẩn tàng.

     Dưới bài dịch có lời chú của ông Nguyễn Đức Dương, cháu nội cụ Hành Tẩu, nguyên thứ trưởng Bộ Ngoại giao, anh em con cô con cậu với ông tôi. Lời chú kể là năm 1968 trước khi mất 1 năm. cụ Hồ dưỡng bệnh ở Quảng Châu , ông Chu Ân Lai từ Bắc Kinh về thăm. Không biết hai ông bàn chuyện gì, khi cụ Hồ về Hà Nội ( chắc khoảng tháng 5/1969) cụ Hồ gửi ông Chu câu thơ  nhái theo câu trên

   Bắc Kinh thân hữu như tương vấn

    Nhất phiến đan tâm tại ngọc hồ

Tôi cho rằng việc sửa văn thơ tuỳ tiện không được nhã, và có thể bắt nguồn từ thói quen dân gian lẩy kiều, hát ả đào của dân Nghệ Tĩnh. Cụ Dương chắc cũng cùng ý đó nên bình “về mặt ngoại giao tỏ lòng thân thiện với TQ. Còn về mặt văn chương hẳn Bác cũng thấy là khiên cưỡng” Vậy ta hãy bình một chút xem sao. Cụ Hồ đã thay đổi câu thơ của Vương ở 3 chỗ : Trước hết Lạc Dưong đổi thành Bắc Kinh, chắc nhờ ông Chu nhắn với ông Mao. Chữ “hồ” là bầu rượu đổi thành Hồ trong tên Hồ Chí Minh. Thay đổi này làm biến hẳn ý nghĩa và chủ thể người nhắn tin. Điều đáng nói nhất là chữ “đan tâm”. Chữ này nghĩa khá rõ vì gắn liền với tên tuổi nhà ái quốc vĩ đại và bi phẫn nhất lịch sử Trung quốc với câu thơ chính khí uất hận không tan trước khi lâm chung

   Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử

   Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Tôi tạm dịch

   Sinh ra làm người ai chẳng mất

   Cốt giữ lòng son rạng sử xanh

Chữ “đan tâm” ở đây vô cùng đắc thủ. Đan là đỏ như son, không phải là bã trầu, tiết dê hay hồng phấn hay hơn hẳn “hồng tâm” mặc dù không lập trường bằng. Tiếng Việt là “lòng son”  cũng là từ dịch rất đạt cả ý lẫn chữ. Son trong “son sắt” hàm ý không thay đổi mặc dù hoàn cảnh không như ý. Đối với Văn Thiên Tường lại càng rõ. Nước mất nhà tan, vua đã chết tại Nhai Sơn cùng các đồng chí như Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt, Văn ý thức được vận mệnh nhà Tống đã mất, tương lai đã định cục chỉ mong giữ đan tâm làm gương cho hậu thế. Không có những đan tâm như Văn hậu thế có lẽ sẽ không còn biết chính khí là gì. Do đó mặc dù người ta vẫn đề cao Tổ Xung Chi phục vụ triều đại mới để phát minh khoa học, người ta vẫn thờ và khóc Văn.

    Cũng có thể cụ Hồ không có ý tứ sâu xa, tiện tay dùng chữ nghĩa cốt được việc. Tuy vậy, tôi cho rằng dùng đến “ đan tâm” chắc có tâm sự lớn liên quan tới nội dung cuộc nói chuyện với ông Chu ở Quảng Châu và giống như một lời trối trăng.

      Cuối cùng chuyện phiếm cho vui. Lầu Phù Dung là ở đâu. Bài thơ có nói về địa điểm này ở giữa đất Ngô và đất Sở. Nghe nói ngày nay gần Phượng Hoàng cổ trấn có trấn Phù Dung. Nơi đây ông tổ của họ tôi là Nguyễn Nhân Thiệm phó sứ của ông Trạng Bùng đã qua đời trên đường về. Cụ Thiệm người làng Bột Thượng, Hoằng Hoá cùng làng với Cống Quỳnh. Khi vào làm quan ở Nghệ An cụ tạo sinh (có lẽ có phòng nhì) ra chi Nguyễn Huy ở Vạn Lộc Chân Lộc. Bột Thượng thuộc Hoằng Lộc là nơi có vô số đại khoa. Ông tôi chắc thừa hưởng được truyền thống đó.

Source: https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=2135315206544021&id=100001966872861

Đan tâm
Tagged on:                 
%d bloggers like this: