Dương Chấn Ninh (Chen Ning Yang) qua đời

by , under Uncategorized

DƯƠNG CHẤN NINH (CHEN NING YANG) 

NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI MỸ-TRUNG QUA ĐỜI

Nguyễn Xuân Xanh

 

Tôi và các bạn học đã trải qua đêm dài tưởng chừng như vô tận của dân tộc Trung Hoa. May mắn thay, tôi đã có thể đón chào ánh bình minh.

—Chen Ning Yang (Dương Chấn Ninh)

 

Nhà vật lý hạt Mỹ-Trung Giải Nobel C. N. Yang qua đời hưởng thọ 103 tuổi hôm thứ Bảy tại Bắc Kinh. Cái chết của ông được thông báo bởi Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, nơi Tiến sĩ Dương đã giảng dạy nhiều năm. Tin này lan truyền nhanh chóng khắp thế giới. C. N. Yang là ai?

Báo Tuổi Trẻ sáng nay có đăng nguyên trang về chủ đề này. Dưới đây, trong không gian rộng rãi, tôi xin đăng lại bài viết với nhiều chi tiết và hình ảnh.

Dương Chấn Ninh, một trong những nhà vật lý ảnh hưởng nhất. Ảnh của ông.

Yang sinh ngày 1 tháng 10 năm 1922 tại Hefei, tỉnh Anhwei (Anhui), Trung Quốc. Dương không phải xuất thân từ “số không”, mà là con của một giáo sư toán, K.C. Yang, từng tốt nghiệp Ph. D tại Đại học Chicago rồi trở về TQ giảng dạy tại Đại học Tsing Hua (Thanh Hoa, Bắc Kinh) rồi sau đó tại Southwest Associated University (Liên kết Tây Nam), Kunming, tỉnh Yunan.

Cuối năm 1945 Yang, lúc đó 23 tuổi, sang Hoa Kỳ và kỳ vọng được học với Enrico Fermi (giải Nobel 1938). Nhưng ông đã thất vọng khi biết rằng Fermi đã rời Columbia và bặt tăm âm tín. Sau một cuộc truy tìm kiệt sức cuối cùng ông biết rằng Fermi đang làm việc ở Đại học Chicago. Tại đây Yang đăng ký học vật lý hạt với Edward Teller, một ngành lúc đó còn rất mới mẻ, và sau khi tốt nghiệp tiến sĩ (1948) với Teller ông làm trợ lý cho Fermi một năm, đồng thời tiếp tục theo dõi ngành cơ học thống kê riêng cho mình.

Giải Nobel nóng

C. N. Yang có rất nhiều đóng góp to lớn trong nhiều ngành của vật lý học thế giới. Nổi bật nhất là khám phá đã từng gây sửng sốt của ông và đồng nghiệp T.D. Lee, cũng là một Hoa kiều, về sự không bảo toàn đối xứng gương ở vật lý các tương tác yếu (non-conservation of parity in weak interactions only); tương tác này là một trong bốn tương tác căn bản của vũ trụ chịu trách nhiệm cho sự phân rã bêta (β-decay). Nghiên cứu của hai ông cho rằng tất cả những thí nghiệm trước đây về sự phân rã bêta (β-decay) là quá đơn giản để có thể kiểm tra tính bảo toàn đối xứng. Hai ông đề nghị một số thí nghiệm mới để kiểm chứng điều đó, trước sự hoài nghi của cả giới vật lý.

Hai ông Dương (trái) và Lý lúc còn trẻ, trong thời kỳ giải Nobel.

Nhưng chỉ nửa năm sau, đầu 1957, Chien-Shiung Wu (Ngô Kiện Hùng) đại học Columbia, một nữ chuyên gia nổi tiếng về sự phân rã bêta, cũng là người gốc Trung Quốc, đã dùng thí nghiệm với phương pháp đặc biệt để kiểm chứng ý tưởng mới của Yang và Lee, và đã chứng minh thật sự “Chúa thuận tay trái yếu”. Công bố kết quả của bà cho thấy sự bất đối xứng gương là không chối cãi được trong phân rã bêta! Tức là các hiện tượng vật lý và ảnh gương của chúng không diễn ra cùng định luật. “Thượng đế là một người thuận tay trái yếu”. Thế giới vật lý bàng hoàng. Schwinger đã nói với các thành viên nhóm hoạt động của ông: “Gentlemen, chúng ta hãy cúi mình trước (ý muốn của) tự nhiên”. Ngay trong cùng năm, 1957, Lee và Yang, ở tuổi 31 và 35, được công nhận nóng giải Nobel, là hai trong những người trẻ tuổi nhất (Heisenberg và Dirac được giải lúc 31 tuổi). Dư luận rất lấy làm tiếc là bà Wu, đôi khi được ví như một Marie Curie thứ hai, không được chia sẻ giải này. Ủy ban Nobel ở Stockholm đã tỏ ra mình ‘bất đối xứng’, ‘thuận dương’ hơn ‘thuận âm’!

Chien-Shiung Wu (Ngô Kiện Hùng, 1912-1997), “First lady of science”

Và từ đó trở đi trong thế kỷ XX, bất đối xứng chiếm ngự tư duy các nhà vật lý hạt. Năm 1956/57 đánh dấu thời ‘hậu hiện đại’ trong vật lý hạt. Thế giới từ đây như đổi khác. Cuối cùng, các đối xứng P, C (điện tích) và T (thời gian) cũng bị phá vỡ. Chỉ có đối xứng liên kết CPT là đứng vững. Thực tế con người cũng là sản phẩm của bất đối xứng trong vũ trụ.

Ông Dương (bên trái) cùng nhận giải Nobel Vật lý với Lý Chính Đạo (ở giữa) vào năm 1957. Nguồn: Associated Press

 

“Tôi là sảnh phẩm của cả nền văn hóa Trung Hoa và phương Tây, trong hài hòa lẫn xung đột”

Tại buổi tiệc Nobel năm 1957, Yang kể câu chuyện từ đâu ông đã đến Mỹ và có mặt hôm nay tại giải Nobel. Ông nói, khi giải Nobel được bắt đầu năm 1901 thì cuộc chiến Nghĩa Hòa Đoàn (Boxer War) cũng vừa chấm dứt. Trung Hoa bị buộc bồi thường cho liên minh phương Tây và Nhật Bản một số tiền lớn gây choáng váng. Khoảng mười năm sau đó, Yang nói, trong một “nghĩa cử rất Mỹ”, Hoa Kỳ quyết định trả lại Trung Hoa số phần tiền của họ cho Trung Hoa cho việc tài trợ xây dựng Đại học Thanh Hoa và một chương trình học bổng cho sinh viên để du học tại Hoa Kỳ, và “tôi là người hưởng lợi trực tiếp từ cả hai đề án này.” Yang nói tiếp, ông là “sản phẩm của cả nền văn hóa Trung Hoa và phương Tây trong hài hòa lẫn xung đột. Tôi muốn nói rằng tôi tự hào về di sản và xuất thân Trung Hoa của mình cũng như tôi cống hiến cho khoa học hiện đại, một phần của nền văn minh nhân loại có nguồn gốc phương Tây, mà tôi đã cống hiến và sẽ tiếp tục cống hiến công sức của mình.”

Đó là tầm nhìn văn hóa của ông, cũng như hé lộ tình yêu của ông đối với quê hương của ông, điều sẽ giải thích sự trở về của ông để giúp nước trong những năm 1970. Cũng theo lời kể của ông, có khoảng hai mươi sinh viên của chương trình Bồi thường Nghĩa Hòa Đoàn của Hoa Kỳ đã bay từ Côn Minh đến Calcutta vào cuối tháng 8 năm 1945, sau đó lên một tàu sân bay chở quân của Mỹ vào cuối tháng 10, và đến New York vào cuối tháng 11.

Tám nhà vật lý giải Nobel tại Hội nghị Rochester 1960 ở Rochester, New York. Từ trái qua: E. Segrè, C. N. Yang, O. Chamberlain, T. D. Lee, E. McMillan, C. D. Anderson, I. I. Rabi, W. Heisenberg. (Ảnh của L. Cruzer)

Yang có nhiều đóng góp quan trọng trong ngành vật lý như trong ngành vật lý thống kê và vật lý vật chất ngưng tụ. Năm 1954, cùng với Robert Mills, ông đã xây dựng Lý thuyết Chuẩn Yang-Mills, dẫn đến sự phát triển của Mô hình Chuẩn, khuôn khổ hàng đầu để hiểu biết về vật lý hạt. Lực điện từ và lực yếu chẳng hạn đã được thống nhất thành lực điện-yếu, bằng thuyết trường Yang-Mills. Công trình lý thuyết chuẩn là phát minh năm 1954 tại phòng thí nghiệm Brookhaven, một công trình “khai mở kỷ nguyên”, là hạt giống của Yang được gieo trước cả sự khám phá vi phạm đối xứng gương của C. N. Yang và T.D. Lee. Không những lực yếu, và cả lực mạnh, còn gọi là sắc động điện học lượng tử QCD, lực điều hành các quark, cũng dựa lên thuyết Yang-Mills. Hai lực, lực mạnh và lực điện-yếu đều có một nguồn gốc chung: thuyết Yang-Mills. Yang rất xứng đáng lắm một giải Nobel thứ hai cùng với Mills! Dĩ nhiên, Yang còn vô số đóng góp khác.

Ảnh hội nghị kỷ niệm 60 năm thuyết trường Yang-Mills tại Nanyang Technological University, Singapore, 25 -28 May 2015 (sách của các chủ biên L. Brink K. K. Phua, NXB World Scientific

 

Về nguồn gốc ý tưởng của thuyết trường Yang-Mills, ông nói:

Tôi đã chịu ảnh hưởng từ lời kêu gọi thống nhất các lực khác nhau trong tự nhiên của Einstein, và từ công thức đối xứng chuẩn của Weyl về điện từ, khi tôi còn là nghiên cứu sinh tại Chicago.

Nhưng một động lực trực tiếp hơn đối với tôi là trong thập kỷ sau năm 1945, sự phát triển thú vị nhất trong vật lý là rất nhiều hạt cơ bản mới được khám phá bằng thực nghiệm. Chúng tương tác với các hạt cũ như proton, neutron, electron, và với nhau như thế nào? Đã có rất nhiều bài báo, cả lý thuyết lẫn thực nghiệm, về cách hạt này tương tác với hạt kia, cách các hạt Σ và Λ tương tác, v.v. Khi còn là nghiên cứu sinh tại Đại học Chicago, tôi nghĩ rằng cần có một nguyên lý chung về tương tác, và nguyên lý đó có thể xuất phát từ đối xứng chuẩn của Weyl.

Hai ông C.N. Yang và Robert Mills

Một trang bản thảo viết tay của Dương Chấn Ninh năm 1947 về thuyết trường chuẩn

Có lần Yang nhớ lại một cuộc gặp gỡ với Einstein trong những năm 1950. Yang vừa xuất bản một bài báo trên tạp chí The Physical Review, và Einstein muốn thảo luận với ông. Họ đã nói chuyện trong một tiếng rưỡi, Yang kể lại theo New York Times, rằng ông “không thu được nhiều thông tin từ cuộc trò chuyện đó”, bởi “ông ấy nói rất nhỏ nhẹ”, “và tôi thấy khó tập trung vào lời ông ấy nói, vì quá choáng ngợp trước sự gần gũi của một nhà vật lý vĩ đại mà tôi đã ngưỡng mộ bấy lâu nay.”

Yang nghi ngờ các nhà vật lý sẽ đạt được một lý thuyết về vạn vật. “Tự nhiên là vô cùng tinh tế”, ông nói. “Tôi tình rằng chiều sâu của các chất tự nhiên là điều mà con người không thể nào thấu hiểu được. Bởi vì xét cho cùng, chúng ta chỉ có, giả sử, 100 tỷ tế bào thần kinh. Làm sao bạn có thể sánh được với chiều sâu vô tận của tự nhiên?”

 

Cuộc trở về

Khi Yang được tôn vinh với giải Nobel, Chu Ân Lai tìm cách để kéo Yang về lại Trung Quốc. Yang từ chối. Nhưng khi Kissinger trở về từ Bắc Kinh sau một chuyến đi lịch sử khai thông quan hệ Mỹ-Trung năm 1971, thì chẳng bao lâu người bạn đồng hương vật lý Kerson Huang của ông nhận được lá thư bằng tiếng Hoa của Yang: “Trong giây phút trọng đại này, tôi đang ở trên chuyến máy bay hướng về Bắc Kinh.”  Đó là thời cơ Yang muốn đóng góp cho Trung Quốc.

Yang là người nổi tiếng đầu tiên về thăm Trung Quốc năm 1971 khi quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu tan băng, có nhiều nỗ lực để giúp cộng đồng vật lý Trung Quốc xây dựng lại không khí nghiên cứu và học thuật đã bị phá hủy bởi cuộc cách mạng văn hóa quá khích mà mọi người quá chán nản, muốn làm lại cái gì hoàn toàn mới theo chiều hướng lành mạnh của các nước phát triển để mong bắt kịp họ. Đó là môi trường đang rất thuận lợi như mảnh đất màu mỡ chờ đợi những người như Yang gieo hạt. Ông cùng với một cộng đồng Hoa kiều mạnh mẽ ở Hoa Kỳ làm cầu nối cho quan hệ văn hóa khoa học Hoa-Mỹ ngày càng phát triển. Không phải ông chỉ giúp cho Trung Hoa lục địa mà ông còn cộng tác thân thiện với Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc từ thời xa xưa trước đó khi các quốc gia này còn thù địch với Trung Quốc trong cuộc chiến tranh lạnh.

Với sự dấn thân, cuộc đời ông bắt đầu một chương mới. Bằng cách tích cực thúc đẩy giao lưu văn hóa và hiểu biết lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc, Dương đã mở ra cánh cửa cho trao đổi nhân sự và hợp tác khoa học công nghệ giữa hai nước. Ông đã đưa sinh viên Trung Quốc sang học tập tại Hoa Kỳ, nơi được coi là nguồn đào tạo khoa học tiên tiến lớn nhất thế giới. Dương đã đến thăm Đại học Thanh Hoa nhiều lần, xuất phát điểm của ông thời sinh viên, luôn luôn trăn trở với việc củng cố khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản. Ông và lãnh đạo Thanh Hoa, Vương Đại Trung (Wang Dazhong), lúc bấy giờ là hiệu trưởng Đại học Thanh Hoa, đã nhấn mạnh đến hệ thống và mô hình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Cao cấp thuộc Đại học Princeton. Họ đi đến kết luận, rằng việc thành lập một viện nghiên cứu cao cấp là cấp thiết.

Ngày 2 tháng 6 năm 1997 Viện Nghiên cứu Cao cấp của Đại học Thanh Hoa chính thức được thành lập, với Dương Chấn Ninh là giám đốc danh dự. Phát biểu tại lễ khánh thành, Dương kỳ vọng rằng viện sẽ có những đóng góp đáng kể cho khoa học và công nghệ quốc tế trong 10, 20 hoặc 50 năm tới.

Ông lao vào việc đào tạo thế hệ mới, bắt đầu từ 2004, lúc đó ông 82 tuổi, giảng dạy môn Vật lý Đại cương cho bốn lớp sinh viên năm thứ nhất, soạn đề thi, và luôn có mặt trong phòng thi. Theo lời kể của sinh viên, lớp học luôn chật kín với hàng trăm, thậm chí gần một nghìn sinh viên cho mỗi bài giảng. Những người may mắn được ngồi, trong khi những người khác chen chúc ở hành lang hoặc bệ cửa sổ lớp học. Những người không thể chen chân vào lớp học cũng tụ tập quanh cửa sau hoặc cửa sổ lớp học để được nhìn thấy Dương đang giảng bài.

Bên cạnh giảng dạy, ông Dương luôn thúc đẩy khoa học cơ bản ở Trung Quốc và phát triển tài năng tương lai. Năm 2009, một cuộc thảo luận mới lại nổ ra về mối quan ngại của nhà vật lý nổi tiếng Tiền Học Sâm (Hsue-Shen Tsien) – tại sao Trung Quốc không thể đào tạo ra những tài năng xuất chúng ngang tầm với các bậc thầy đầu thế kỷ XX ở phương Tây? Ngay sau đó, Đại học Thanh Hoa đã thành lập Lớp Vật lý đặc biệt, một phần của Chương trình Học đường Thanh Hoa, nhằm mục đích đào tạo các nhà vật lý đẳng cấp thế giới.

Một trong những mối quan tâm lớn của ông Dương là giao lưu với thế hệ các nhà khoa học trẻ tiếp theo để truyền cảm hứng cho họ trong ngành vật lý. Tại một diễn đàn, trả lời câu hỏi của một học sinh trung học phổ thông về “làm thế nào để nuôi dưỡng và duy trì tinh thần đổi mới và sự tò mò”, ông Dương trả lời rằng nghiên cứu khoa học ở những vùng biên giới thường trải qua cả những giai đoạn khó khăn lẫn những giai đoạn tươi sáng. “Tôi nghĩ có hai tư duy rất quan trọng mà bạn phải đồng thời duy trì: Thứ nhất là không bỏ cuộc dù có chuyện gì xảy ra, và thứ hai là nếu bạn thực sự cảm thấy mình không thể tiếp tục nữa, bạn cần tìm cho mình một hướng đi mới”, ông nói.

Quan điểm về làm khoa học

Tiền Học Sâm (Hsue-Shen Tsien) được xem là cha đẻ của chương trình hỏa tiễn và không gian Trung Quốc. Trước khi mất năm 2009, ông đã đặt câu hỏi: “Tại sao, kể từ năm 1949, các đại học Trung Quốc đã không sản xuất được một nhà tư tưởng hay một khoa học gia có những phát minh tầm cỡ thế giới?” Năm 1955, Tiền Học Sâm, một ngôi sao đang nổi tại Viện Công nghệ California (Caltech), đã bị Hoa Kỳ trục xuất với cáo buộc là đảng viên cộng sản. Trước khi lên tàu Cleveland President trở về Hồng Kông, Tiền đã phát biểu trước rất nhiều phóng viên tại bến cảng Los Angeles: “Tôi dự định sẽ làm hết sức mình để giúp người dân Trung Quốc xây dựng lại đất nước để họ sống có phẩm giá và hạnh phúc.” Vào năm 1991 khi tiếp đón một người bạn cũ ở Catech là Frank Marble tại Bắc Kinh, Tiền đã nói với giọng nhỏ nhẹ nhưng hoang mang và đậm vẻ bào chữa: “Này Frank, chúng tôi đã làm được nhiều điều cho Trung Quốc. Người dân đã có đủ ăn, họ có việc làm và đạt được nhiều tiến bộ. Nhưng họ không hạnh phúc.” (Xem Trung Quốc đã trở thành nước tư bản thế nào Tháng Tám, 2023)

Liên quan đến câu hỏi của Tiền Học Sâm, nhận định sau đây trong một bài phỏng vấn ông là quan trọng:

Theo tôi, sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc trong 40 năm qua là một thành công rực rỡ. […] Nhưng mô hình đó không phù hợp với sự phát triển của khoa học cơ bản, bởi vì các cuộc cách mạng trong khoa học cơ bản luôn bắt nguồn từ nỗ lực của một vài cá nhân, chứ không phải từ các dự án lớn. Điện từ học, thuyết Darwin, phân hạch, chất bán dẫn, chuỗi xoắn kép, penicillin, tất cả những cuộc cách mạng vĩ đại trong khoa học cơ bản này đều đến từ nghiên cứu của một vài cá nhân với ngân sách hạn hẹp, chứ không phải từ các dự án lớn.

Tuy có big science, nhưng khám phá khoa học trong lịch sử không phải luôn luôn là công việc của tập thể, mà từ bao đời là của cá nhân, của những con người sống với “cô đơn và tự do” để nghiên cứu suốt đời mới có khoa học. Họ phải độc lập trong tư duy.

Được yêu cầu cho lời khuyên của tuổi trẻ Trung Quốc, ông Dương nói:

Tôi nghĩ, sinh viên trẻ Trung Quốc thường bỏ qua tầm quan trọng của sở thích cá nhân (their own interests), điều này có thể là do hệ thống văn hóa và giáo dục đặc thù của Trung Quốc. Họ được dạy phải tuân theo nhu cầu của xã hội, chứ không phải để khám phá và thực hiện sở thích của riêng mình. Vì vậy, tôi đề nghị sinh viên trẻ Trung Quốc nên chú ý hơn đến việc phát triển sở thích cá nhân. Trong khi đó, nếu bạn yêu cầu tôi đưa ra lời khuyên cho sinh viên Mỹ, tôi khuyên họ nên bớt quan tâm đến một số cái gọi là sở thích của mình và xem xét nhiều hơn đến các xu hướng phát triển chính của xã hội và khoa học.

Tôi cho những lời khuyên đó cũng đúng cho tuổi trẻ Việt Nam hôm nay. Khoa học đòi hỏi tính cá nhân, individuality, hay character, biết tự chủ, và phát triển các mối quan tâm (sở thích) lành mạnh. Sự hình thành cá nhân ở các xã hội phương Đông rất chậm so với phương Tây.

Quê nhà

Năm 1950, ông Yang kết hôn với người vợ đầu là Chih Li Tu và có ba người con. Sau khi bà Tu qua đời năm 2003, ông kết hôn với người vợ thứ hai là Weng Fan (Ông Phàm), kém ông hơn 54 tuổi, ông 82, cô 28, một sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Ngoại ngữ Quảng Đông. Họ gặp nhau lần đầu vào năm 1995 khi Weng còn là sinh viên trong một hội thảo vật lý. Yang gọi cô là “phước lành cuối cùng của Thượng đế” ban cho ông, có lẽ tiếp sức cho ông trong cuộc hành trình thứ hai tại quê hương.

Trong ánh bình minh của đất nước mà ông Yang đã nhìn thấy, có phần đóng góp của ông. 

 

Mời xem thêm:

CUỘC TRIỂN LÃM EINSTEIN TẠI SHANGHAI NĂM 2019

Năm 2019 diễn ra cuộc triển lãm “Albert Einstein: “Cuộc sống trong bốn chiều không gian” tại Bảo tàng World Expo ở Thượng Hải, kéo dài từ ngày 2 tháng 8 đến ngày 22 tháng 10. Triển lãm trưng bày hơn 130 hiện vật gốc, bao gồm bản thảo và thư từ, lấy từ Thư viện Lưu trữ Albert Einstein tại Đại học Hebrew Jerusalem. Triển lãm trưng bày những thành tựu khoa học, cuộc sống cá nhân và ảnh hưởng văn hóa của ông, bao gồm cả phương trình nổi tiếng của ông:

E = mc2

Chen Ning Yang là người phát biểu tại buổi khai mạc triển lãm. Ông vốn là người rất ngưỡng mộ Einstein. Khi nói đến Einstein, ông hết sức trân trọng. “Einstein là một nhà khoa học mà tôi vô cùng ngưỡng mộ. Ông ấy (và các công trình của ông ấy) đã có tác động sâu sắc đến vật lý và cuộc sống hàng ngày của chúng ta”, Yang phát biểu tại lễ khai mạc.

Năm 2019 đánh dấu kỷ niệm 140 năm ngày sinh của nhà khoa học. Yang đã tham dự sự kiện này cùng với Hanoch Gutfreund, cựu hiệu trưởng trường Đại học Hebrew tại Jerusalem, nơi lưu giữ tất cả những tài liệu và hiện vật của Einstein.

Hanoch Gutfreund, chuyên gia của Kho lưu trữ Albert Einstein thuộc trường đại học, và một nhà nghiên cứu Einstein, kỳ vọng triển lãm sẽ nâng cao hiểu biết của công chúng Trung Quốc về Einstein và khơi dậy niềm đam mê khoa học của giới trẻ.

Một quyển sách về Albert Einstein làm guide-book luôn luôn đi kèm với các cộc triển lãm Einstein quốc tế, của hai tác giả Z. Rosenkranz và B. Wolff, cũng đã được dịch sang tiếng Trung để phục vụ cho triển lãm.

 

Bức ảnh chụp Einstein và vợ Elsa cùng với chủ nhà thương gia Trung Quốc tại Thượng Hải năm 1922 có nhã ý chiêu đãi ông. (Ảnh do chinadaily.com.cn cung cấp) Einstein trên đường đi diễn thuyết tại Nhật Bản năm 1922 có ghé qua Thượng Hải, cũng như Singapore, và ông được một nhà giàu có ở Thượng Hải chiêu đãi. Một cuộc dàn xếp giữa Einstein và Thái Nguyên Bồi hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh để mời ông ghé nói chuyện tại Đại học Bắc Kinh rất tiếc bị thất bại vì những lý do kỹ thuật.

Phòng làm việc của Einstein tại Kramgasse, Bern, Thụy Sĩ, được dựng lại

Phòng triển lãm được thiết kế với “sự biến dạng thời gian và không gian”

Cuộc triển lãm trên được một công ty tổ chức sự kiện ở Đài Bắc thực hiện. Họ chuẩn bị rất lâu và sau đó thực hiện cuộc triển lãm ở nhiều nơi tại Đài Loan rồi Trung Quốc. Tôi có liên lạc cả hai năm trời, hy vọng tìm được các đối tác trong nước để kéo triển lãm đó vào Việt Nam thì sẽ tiện. Nhưng “Thời cơ chưa tới”. Một cuộc triển lãm như thế chắc chắn sẽ có sức truyền cảm hứng vô cùng to lớn cho người xem, và đó sẽ là một vốn quý rất lớn cho cuộc hành trình vào khoa học để chấn hưng đất nước. Nhưng xã hội có lẽ chưa nhận ra cái vốn vô hình đó. Tình yêu khoa học không phải tự nhiên mà có, mà cần phải được xây đắp bởi nhiều bàn tay hiểu ý nghĩa của nó, lại càng rất khác biệt từ xã hội này sang xã hội khác, thời này qua thời khác. Nhà khai sáng Anh David Hume có nhận xét rằng:

Việc lý giải sự trỗi dậy và phát triển của thương mại ở bất kỳ vương quốc nào cũng dễ dàng hơn là lý giải sự phát triển của sự học . … Lòng tham, hay ham muốn lợi nhuận, là một đam mê phổ quát, hoạt động mọi lúc, mọi nơi và đối với tất cả mọi người: Nhưng sự tò mò, hay tình yêu tri thức, có ảnh hưởng rất hạn chế, và đòi hỏi tuổi trẻ, thời gian rảnh rỗi, học vấn, thiên tài và tấm gương để chi phối bất kỳ ai …

Trong khi đó:

Những người vun đắp khoa học ở bất kỳ quốc gia nào luôn rất ít: Niềm đam mê chi phối họ rất hạn chế: Thị hiếu và phán đoán của họ rất tinh tế và dễ bị bóp méo: Và việc áp dụng chúng bị xáo trộn bởi những tai nạn nhỏ nhất. Do đó, sự ngẫu nhiên, hay những nguyên nhân bí ẩn và chưa được biết đến, chắc chắn có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và tiến bộ của tất cả các nghệ thuật tinh tế.

David Hume, 1742

Riêng xã hội phương Đông từng được thống trị thêm một quy luật khác cản trở tình yêu khoa học. Trong một đoạn văn nổi tiếng, người đứng đầu phái bộ Dòng Tên ở Bắc Kinh, Matteo Ricci, đã viết vào khoảng năm 1600 rằng ở Trung Quốc:

Chỉ những người có bằng tiến sĩ hoặc bằng cử nhân mới được phép tham gia vào việc cai quản vương quốc … không ai sẽ nỗ lực để đạt được trình độ thành thạo về toán học hoặc y khoa nếu họ có bất kỳ hy vọng nào trở nên nổi bật trong lĩnh vực triết học [tức kinh điển]. Kết quả là hầu như không ai dành hết tâm huyết cho những nghiên cứu này … việc nghiên cứu toán học và y khoa bị coi nhẹ, bởi vì chúng không được thúc đẩy bởi danh dự như nghiên cứu triết học. (Matteo Ricci)

Hy vọng sẽ có một thời cơ khác sẽ còn đến với Việt Nam.

Nguyễn Xuân Xanh

 

Dưới đây là ảnh trang báo in của Tuổi Trẻ ngày 20/10/2025 cũng như link online:

https://tuoitre.vn/nha-vat-ly-hoc-trung-quoc-chen-ning-yang-qua-doi-di-san-cua-nguoi-ra-di-20251020092740116.htm