LIỆU KHỦNG HOẢNG 1929 CÓ THỂ TÁI DIỄN?

Cho đến cuộc Đại Khủng hoảng, hầu hết các nhà kinh tế đều bám víu vào quan điểm về chủ nghĩa tư bản như một hệ thống hoàn hảo hoặc gần như hoàn hảo. Quan điểm đó không còn bền vững trước nạn thất nghiệp hàng loạt, nhưng khi ký ức về cuộc Đại Khủng hoảng phai nhạt, các nhà kinh tế lại yêu thích quan điểm cũ, lý tưởng hóa về một nền kinh tế mà trong đó những cá nhân tư duy hợp lý tương tác nhau trong những thị trường hoàn hảo.
— Paul Krugman
Một nhóm các nhà tài chính đang cố thuyết phục công chúng đầu tư mạnh vào vốn cổ phần tư nhân và tiền điện tử – một canh bạc mạo hiểm mang hơi hướng của những năm 1920.
—Andrew Ross Sorkin
Luật Lệ Đầu Tư Đang Được Nới Lỏng
Liệu điều này có dẫn đến ‘một cuộc khủng hoảng 1929’ khác tiếp theo?
Andrew Ross Sorkin là nhà báo phân tích tài chính nổi tiếng của tờ New York Times và là và đồng dẫn chương trình Squawk Box của CNBC, nhà sáng lập và biên tập viên của DealBook thuộc New York Times. Ông cũng là tác giả quyển sách phân tích vụ khủng hoảng tài chính 2008 với quyển sách Too Big to Fail. Giờ đây tháng trước ông ra mắt độc giả với cuốn sách “1929: Bên trong vụ sụp đổ lớn nhất trong lịch sử Phố Wall – và cách nó đã phá tan một quốc gia như thế nào.”
Nguyễn Trung Dân chuyển ngữ
Từ một bài báo trên The New York Times 13/10/2025
Về cuốn sách:

“Đây là một trong những câu chuyện lịch sử hay nhất mà tôi từng đọc.”
—The Wall Street Journal
Được New York Times Books Review, TIME, Washington Post, Associated Press, Town & Country, New York Post và nhiều tạp chí khác bình chọn là Cuốn sách được mong đợi nhất.
Từ tác giả bán chạy nhất của cuốn sách Too Big to Fail, “lịch sử xác thực về cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 2008” (The Atlantic), một câu chuyện hấp dẫn về vụ sụp đổ thị trường chứng khoán khét tiếng nhất trong lịch sử – một câu chuyện với những hiệu ứng lan tỏa vẫn định hình xã hội của chúng ta ngày nay.
Năm 1929, cả thế giới bàng hoàng chứng kiến thị trường chứng khoán Phố Wall tăng trưởng không ngừng lại rơi lao dốc, xóa sổ tài sản và châm ngòi cho một cuộc suy thoái sẽ định hình lại cả một thế hệ. Nhưng đằng sau những cuộn băng giấy nhấp nháy và những nhà giao dịch hoảng loạn, một vở kịch khác đã diễn ra – vở kịch của những người có tầm nhìn xa và những kẻ lừa đảo, những người khổng lồ và những kẻ mộng mơ, sự hưng phấn và sự sụp đổ.
Đây không chỉ là câu chuyện về tiền. 1929 là câu chuyện về quyền lực, tâm lý học và ảo tưởng quyến rũ rằng lần này sẽ khác. Nó nói về những hồi chuông cảnh báo bị phớt lờ, những nhà tài chính không được tin tưởng, và những người hoài nghi đã nhìn thấy sự sụp đổ sắp xảy ra—chỉ để bị gạt bỏ cho đến khi quá muộn.
Được ca ngợi là một cuốn sách mang tính bước ngoặt, Too Big to Fail đã tái hiện cách thức các cuộc khủng hoảng tài chính được kể lại. Giờ đây, với 1929, Sorkin mang đến một câu chuyện sống động, đầy cảm xúc về sự sụp đổ thị trường then chốt nhất mọi thời đại—với những bài học vẫn luôn cấp thiết. Không chỉ là một câu chuyện lịch sử, 1929 còn là một bản thiết kế quan trọng để hiểu được các chu kỳ đầu cơ, những động lực thúc đẩy biến động tài chính, và những dấu hiệu cảnh báo mà nếu chúng ta bỏ qua sẽ gặp nguy hiểm.
Phần trích đăng trên New York Times, 13/10/2025
Trở lại những năm 1920, Charles Mitchell – vị chủ tịch kiêu ngạo của Ngân hàng National City, tiền thân của Citigroup – thường hay có một nghi thức. Ông thường đưa các nhân viên kinh doanh trái phiếu của mình đi ăn trưa tại Bankers Club, nằm trên đỉnh Tòa nhà Equitable tại số 120 Broadway, chỉ tay xuống thành phố New York trải dài tít tắp như một bức tranh thu nhỏ và nói “Có sáu triệu người với tổng thu nhập lên đến hàng ngàn triệu đô la. Họ đang chờ ai đó đến bảo phải làm gì với số tiền tiết kiệm của họ. Hãy nhìn kỹ đi và ăn một bữa trưa thật ngon rồi xuống bảo cho họ biết phải làm gì.”
Đối với Mitchell, các công cụ tài chính làm giàu mới – cổ phiếu (stocks), khoản vay ký quỹ (margin loans[1]), quỹ tín thác đầu tư (investment trusts[2]) và thậm chí cả các trái phiếu nước ngoài lạ lẫm – không phải để che giấu mà phải được quảng bá như bất kỳ sản phẩm nào khác. “Tôi luôn cảm thấy có quá nhiều điều bí ẩn liên quan đến ngân hàng,” ông thường hay nói như vậy.
Ông không phải là người duy nhất rao giảng về giáo lý tiếp cận đầu tư như thế. John Raskob – một giám đốc điều hành cấp cao tại General Motors, một người có tài quảng bá bẩm sinh và là người đã xây dựng nên Tòa nhà Empire State — đã từng tuyên bố một câu nổi tiếng: “Ai cũng nên giàu có!” Ông giải thích: “Tôi không hiểu tại sao những người lao động nam nữ của đất nước chúng ta lại không được tiếp cận với khoản lợi nhuận khổng lồ đang được tạo ra ở nước Mỹ ngày nay.” Raskob bắt đầu tạo ra một trong những quỹ tương hỗ (mutual fund[3]) đầu tiên, được thiết kế rõ ràng để tạo cơ hội cho “những người nhỏ bé” tham gia vào cơn sốt đầu tư.
Charles Mitchell, tổng giám đốc điều hành National City Bank những năm 1920s (Wikipedia)
Gần một thế kỷ sau, chúng ta đang ở trong một kỷ nguyên mới của tài chính hóa và đổi mới sáng tạo – cuộc chuyển đổi táo bạo nhất về lĩnh vực tiền tệ và đầu tư kể từ những năm 1920, cũng được thúc đẩy bởi ý tưởng mở rộng khả năng tiếp cận thị trường. Vốn cổ phần tư nhân (private equity[4]), vốn đầu tư mạo hiểm (venture capital[5]), và tín dụng tư nhân (private credit[6]) vốn từng là đặc quyền của các tổ chức và cá nhân giàu có, giờ đây đang được đóng gói lại để đem ra quảng bá cho quảng đại quần chúng, thậm chí được nhào trộn vào các chương trình đầu tư hưu trí 401(k)[7]. Mã tiền điện tử đang được bán như thể đó là cách mua một phần các cổ phần của các công ty tư nhân (private company)[8] như SpaceX và OpenAI, và đó là những điều còn đang nằm trong vùng không rõ ràng của luật chứng khoán.
Tất cả những điều đó diễn ra trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang bùng nổ, được thúc đẩy bởi cơn sốt AI, và với một chính quyền mới ở Washington quyết tâm nới lỏng các quy tắc – tạo ra một tinh thần cho phép thoải mái tương tự như những gì đã đưa tới những đổi mới trên thị trường tài chính vào những năm 1920. Chính quyền của tổng thống Trump đang nỗ lực bãi bỏ các điều khoản quan trọng của Đạo luật Dodd-Frank[9], nới lỏng các yêu cầu về vốn đối với các ngân hàng quy mô vừa và loại bỏ Cơ quan Bảo vệ Tài chính cho Người tiêu dùng – một cơ quan ra đời sau năm 2008 để giám sát hoạt động cho vay nặng lãi. Về phần mình, Quốc hội đã thúc đẩy các điều khoản như Đạo luật Genius và gần đây hơn là một luật mới được gọi là Đạo luật Đổi mới và Công nghệ Tài chính cho Thế kỷ 21 – được quảng bá là luật hiện đại hóa nền tài chính và trên thực tế là mở cửa cho tiền điện tử và các sản phẩm đầu cơ tài chính khác.
Tổng thống Trump tổ chức cuộc họp về tài sản kỹ thuật số với các quan chức chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tài chính tại Nhà Trắng vào tháng 3/2025 (NY Times)
Và cũng giống như thời của Mitchell, họ cũng có những người ủng hộ nhiệt thành. Vlad Tenev của quỹ đầu tư Robinhood đã nói “Chỉ những công ty lớn nhất mới có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán, điều này hạn chế cơ hội cho những người thấp bé”, ông khẳng định “bước tiến tiếp theo là đảm bảo những cơ hội đầu tư đó được mở ra cho các nhà đầu tư cá nhân”. Marc Rowan của quỹ đầu tư Apollo cũng nói thẳng toẹt không chút úp mở về các quỹ tiết kiệm hưu trí, ông cho rằng các nhà quản lý các quỹ đó đã “đặt cược tương lai của những người nghỉ hưu vào một vài cổ phiếu”, điều này là “một hành động vô trách nhiệm đối với chúng tôi”.
Những gì đã thay đổi (so với những năm 1920) là những từ ngữ thời thượng thông dụng và sự hào nhoáng; những gì không thay đổi là những lời hứa hẹn – rằng bản thân giấc mơ Mỹ có lẽ đã biến thành giấc mơ làm giàu, một lời hứa lần đầu tiên được quảng bá vào những năm 1920. Niềm tin của Mitchell cho rằng tất cả mọi người đều có thể mua được các cổ phiếu và trái phiếu và chúng nên được bán “tại quầy tính tiền, giống như cách một nhân viên bán cà vạt”, và ý tưởng đó đã giúp đưa ông lên ngang hàng với Babe Ruth và Charles Lindbergh như một biểu tượng về sự tham vọng của người Mỹ. Các nhà tài chính đã trở thành những người nổi tiếng của công chúng và lần đầu tiên xuất hiện trên trang bìa của tạp chí Forbes (bắt đầu vào năm 1917) và tạp chí Time (bắt đầu vào năm 1923). Những tạp chí đó có thể đã bị suy giảm trong những thập kỷ gần đây, nhưng ngày nay, cùng một thông điệp như thế – sự khao khát về nền tài chính được dân chủ hóa, nơi bất kỳ ai cũng có thể trở nên giàu có – vẫn được nhồi nhét cho mọi người về khát vọng và cả sự đố kị qua vô số trang mạng truyền thông xã hội.
Trong nhiều thập kỷ, hầu hết người Mỹ đã bị bỏ lỡ cơ hội làm giàu của thị trường chứng khoán: Gần 40% người Mỹ không sở hữu bất kỳ cổ phiếu nào, và hơn 90% tổng số cổ phiếu được kiểm soát bởi 10% gia đình giàu nhất. Việc tiếp cận thị trường chứng khoán từ lâu đã bị ngăn cản bởi các quy tắc xung quanh khái niệm “các nhà đầu tư được công nhận”, một danh mục pháp lý được tạo ra vào những năm 1930 để bảo vệ các hộ gia đình (bình dân) tránh khỏi các vụ chào bán rủi ro và không minh bạch. Các điều kiện rất nghiêm ngặt: Bạn cần có giá trị tài sản ròng 1 triệu đô la (không bao gồm nhà của bạn) hoặc thu nhập ít nhất 200.000 đô la một năm (300.000 đô la cho một cặp vợ chồng). Ý tưởng cơ bản của các qui tắc đó là chỉ những người giàu có mới có thể đủ khả năng mất tiền trong các giao dịch đầu cơ tài chính. Trên thực tế, định nghĩa này mang lại cho các hộ gia đình giàu nhất – khoảng 18% các gia đình Mỹ – đặc quyền tham gia vào thị trường cổ phiếu các công ty tư nhân (private company). Họ có thể mua cổ phần của các công ty như Facebook hoặc Uber nhiều năm trước khi công chúng có cơ hội tiếp cận, và vì thế họ có thể thu giữ được phần lợi nhuận ‘khủng’. Vào thời điểm các nhà đầu tư bình thường có thể mua các cổ phiếu đó trên sàn giao dịch chứng khoán thì phần lớn lợi nhuận của các cổ phiếu đó đã được lấy hết.
Giờ đây, rào cản đó đang không ngừng được hạ thấp. Cái từng được coi là ranh giới rõ ràng để ngăn cản các nhà đầu tư bình thường đang bị xóa nhòa dưới danh nghĩa tiếp cận thị trường tài chính. Không khó để nhận thấy sức hấp dẫn của việc phá toang những cánh cổng và cho phép những người tiết kiệm bình thường có cơ hội hưởng lợi nhuận, thứ đã tạo nên khối tài sản khổng lồ cho các tổ chức và giới tinh hoa.

Bên ngoài Sàn giao dịch chứng khoán New York sau khi thị trường sụp đổ vào năm 1929
Nhưng lịch sử cũng đã đưa ra một lời nhắc nhở thẳng thắn: Khi sự chuyển đổi diễn ra nhanh chóng như vậy, nó hiếm khi mang lại lợi ích cho tất cả mọi người trừ khi nó đi kèm với sự minh bạch, giám sát và luật lệ. Cơn sốt dot-com cuối những năm 1990 cũng được coi là một thời điểm dân chủ hóa của thị trường tài chính, cho đến khi nó sụp đổ dưới làn sóng của sự thổi phồng và gian lận. Diễn biến lặp lại này rất quen thuộc, kể từ năm 1929: Bất cứ khi nào khả năng tiếp cận mở rộng nhanh hơn các biện pháp bảo vệ, những kẻ lừa đảo sẽ ùa đến và các nhà đầu tư thông thường sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Loại tài sản đầu cơ lớn nhất trong thập kỷ qua chính là tiền điện tử, một lĩnh vực mà bản thân sự rủi ro cũng là một phần hấp dẫn. Trong nhiều năm, nó đã bị một số nhà đầu tư được kính trọng nhất, chẳng hạn như Warren Buffett, coi là một món đồ chơi cho những kẻ cờ bạc và những người ưa mạo hiểm. Nhưng dưới thời chính quyền thân thiện với tiền điện tử của tổng thống Trump, một nhóm các nhà tài chính mới đang nỗ lực tái định hình nó thành một thứ mà mọi người Mỹ nên sở hữu – không chỉ thông qua các sàn giao dịch và ví điện tử mà còn thông qua các công cụ đầu tư được thiết kế để đưa tiền điện tử vào các tài khoản hưu trí và các quỹ tương hỗ (mutual funds – xem chú thích 10).
Không ai đón nhận ý tưởng này nhiệt thành hơn Michael Saylor của công ty phần mềm kinh doanh Strategy (trước đây gọi là MicroStrategy). Với bộ râu bạc phơ, giọng nói ngắn gọn và quyết đoán, Saylor không giống một nhà quản lý doanh nghiệp mà giống một nhà tiên tri tin rằng mình đã nhìn thấy tương lai trước bất kỳ ai.
Trong phần lớn thời gian tồn tại của mình, công ty Strategy đã bán các công cụ phân tích cho các tập đoàn. Nhưng Saylor đã thay đổi hoàn toàn điều đó. Trong vài năm qua, ông đã vay hơn 2 tỷ đô la thông qua các đợt phát hành trái phiếu và trái phiếu chuyển đổi để mua hơn 200.000 Bitcoin — trị giá hơn 13 tỷ đô la theo giá gần đây. Hiện nay, cổ phiếu của Strategy không còn được giao dịch dựa trên doanh số bán phần mềm nữa; nó tăng và giảm gần như hoàn toàn theo giá Bitcoin. Đối với các nhà đầu tư, sức hấp dẫn của các cổ phiếu đó là quá hiển nhiên: đó là một cách dễ dàng để mua lợi nhuận ‘khủng’ của Bitcoin, được che đậy bởi lớp vỏ bọc quen thuộc của một cổ phiếu đại chúng (tức cổ phiếu của Strategy).
Bản thân Saylor đã trở thành hơn cả một giám đốc điều hành; ông là nhà truyền giáo chính của Bitcoin. Trong các bài nói chuyện trên mạng truyền thông (podcast), các chương trình truyền hình ăn khách và trên bục sân khấu ở các hội nghị, ông rao giảng về những đặc tính của “vàng kỹ thuật số (digital gold)” với sự nhiệt thành pha trộn giữa một người bán hàng và một nhà tiên tri. Đối với những người đi theo ông, ông là một anh hùng dân gian đã chỉ cho Phố Wall cách đặt cược lớn vào tương lai. Và cho đến nay, ông đã đúng: Khi Bitcoin phục hồi sau vụ sụp đổ năm 2022, cổ phiếu của Strategy đã tăng vọt – tăng thậm chí còn nhanh hơn cả chính Bitcoin. Gần một nửa cổ phiếu của công ty Strategy hiện do các nhà đầu tư bán lẻ nắm giữ. Đây là một cổ phiếu phổ biến đến mức nó đã được thêm vào chỉ số Nasdaq 100 vào cuối năm 2024, tiếp tục thu hút gần 4 triệu đô la mỗi ngày từ các nhà giao dịch cá nhân, củng cố vị thế là một công ty được yêu thích trên Main Street[10] cũng như trên Wall Street.
Về phần mình, Wall Street cũng đang theo đuổi những chiến lược tương tự. Một số quỹ giao dịch trao đổi (ETF) Bitcoin hiện đang vay nợ bằng chính tài sản nắm giữ của họ và sử dụng đòn bẩy tài chính đó (financial leverage[11]) để hứa hẹn gấp hai hoặc ba lần mức biến động hàng ngày của đồng tiền này, biến một tài sản vốn đã biến động mạnh thành một thứ gần giống với cỗ máy đánh bạc hơn. Quỹ Bitcoin Trust của Grayscale đã bùng phát trở thành một trong những quỹ tiền điện tử lớn nhất bằng cách cung cấp quyền truy cập thân thiện với những người môi giới dịch vụ Bitcoin. Các công ty như Celsius và BlockFi đã tiến xa hơn một bước: Họ thu hút khách hàng với hứa hẹn lợi nhuận “an toàn” đến hai chữ số, bằng cách cho vay tiền gửi, vay nợ bằng chính số tiền đó và tái đầu tư số tiền thu được. Trong một thời gian, mọi thứ trông giống như thuật giả kim. Rồi thủy triều rút đi, đòn bẩy bị phơi bày và hàng tỷ đô la đã biến mất trong tình trạng phá sản.
Và giờ đây, đó không còn là một hiện tượng dị biệt hiếm có nữa. BlackRock, công ty quản lý tiền tệ lớn nhất thế giới, đã cho ra mắt một quỹ ETF Bitcoin, mang đến cho các nhà đầu tư thường nhật (nguyên văn – everyday investors[12]) cơ hội tiếp cận trực tiếp với đồng tiền ảo này. ProShares bán các ETF sử dụng vốn vay và các sản phẩm phái sinh để mang lại mức lợi nhuận – hoặc lỗ hàng ngày gấp đôi Bitcoin. Ngay cả các công ty lớn như Fidelity và Invesco cũng đã giới thiệu các quỹ đầu tư gắn kết với tiền điện tử, che đậy các hoạt động đầu cơ tiền kỹ thuật số trong các gói sản phẩm quen thuộc của quỹ tương hỗ (mutual fund) hoặc các sản phẩm giao dịch trên sàn chứng khoán.
Logic của các cỗ máy đầu cơ tiền điện tử được bẩy lên cao nhất rất giống với các quỹ đầu tư tín thác (investment trusts[13]) hồi năm 1929. Vào thời điểm đó, các công ty như Goldman Sachs đã tạo ra một cấu trúc phức tạp khiến việc đầu cơ trông có vẻ an toàn và đơn giản. Quỹ tín thác đầu tư Goldman Sachs là một trường hợp điển hình về thuật giả kim tài chính. Được tiếp thị dưới hào quang của một trong những tên tuổi uy tín nhất của Wall Street, quỹ này hứa hẹn với các nhà đầu tư bình thường về sự an toàn của việc quản lý chuyên nghiệp và lợi nhuận khủng của nền tài chính hiện đại. Trên thực tế, đó là phòng ảo giác của các gương phản chiếu: Quỹ tín thác này đầu tư vào các quỹ tín thác khác, bao gồm cả những quỹ mà chính Goldman đã phát hành, sử dụng đòn bẩy này chồng lên đòn bẩy khác – giống như một con búp bê nhiều lớp nổi tiếng của Nga, mang hết lớp nợ này đến lớp nợ khác – cho đến khi không ai có thể chắc chắn bên trong có gì. Vào thời kỳ đỉnh cao, cổ phiếu của Goldman Sachs được giao dịch trên 300 đô la; đến năm 1932, chúng có giá trị dưới 2 đô la.
Vậy nên, những gì có vẻ như là một cổ phiếu hoặc quỹ đầu tư bình thường đối với nhà đầu tư bình thường thực chất có thể là một khoản cá cược chồng chất lên nhau. Miễn là tiền cứ tiếp tục chảy vào và giá cứ tiếp tục tăng, hệ thống vẫn sẽ tồn tại. Nhưng nếu tâm lý đầu tư thay đổi, các lớp đó sẽ sụp đổ.
Có lẽ không ai quảng bs và thúc đẩy tín điều về quyền truy cập thị trường tài chính nhiều hơn Vlad Tenev, giám đốc điều hành của công ty tài chính Robinhood là công ty có hệ thống nền tảng giao dịch mà chính cái tên của công ty được chọn để thể hiện ý tưởng rằng hệ thống tài chính phải nên thuộc về quảng đại quần chúng. Sau khi biến giao dịch chứng khoán thành thứ mà mọi người có thể thực hiện trên điện thoại thông minh, Tenev giờ đây muốn tiến xa hơn: xây dựng các sản phẩm cho phép các nhà đầu tư bình thường có thể mua cổ phiếu của các công ty tư nhân (xem chú thích private company).
Dạo hè năm nay Tenev đã thông báo rằng Robinhood sẽ bắt đầu thử nghiệm với “các mã điện tử (tokens) của công ty tư nhân” – các công cụ kỹ thuật số được gắn với cổ phần của các công ty tư nhân (tức các công ty chưa niêm yết trên thị trường – xem chú thích private company) SpaceX và OpenAI. Các token này có thể được mua và bán trên ứng dụng Robinhood tại Châu Âu, giúp các nhà đầu tư cá nhân tiếp cận các công ty khởi nghiệp nổi tiếng mà không cần chờ đến đợt chào bán cổ phiếu lần đầu cho công chúng (IPO). Tenev mô tả đây là một cách để “cân bằng sân chơi” và mang lại cho nhà đầu tư cá nhân quyền được tiếp cận sớm tương tự như các quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư quốc gia.
Khi ông ta công bố điều đó, nó mang lại cảm giác mang tính cách mạng – cho đến khi OpenAI phản bác: “Những ‘mã thông báo (tokens) OpenAI’ này không phải là cổ phần của OpenAI. Chúng tôi không hợp tác với Robinhood, không tham gia vào vụ việc này và không chấp nhận ủng hộ nó. Bất kỳ việc chuyển nhượng cổ phần OpenAI nào đều cần sự chấp thuận của chúng tôi – chúng tôi không chấp thuận bất kỳ việc chuyển nhượng nào.”
Tenev trả lời rằng về mặt kỹ thuật, các mã thông báo này không phải là cổ phiếu OpenAI mà chỉ là một cách cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ cách tiếp cận gián tiếp thông qua cổ phần của một quỹ đầu tư thuộc Robinhood.
Cùng lúc đó, mới gần đây Robinhood đã nộp hồ sơ tại Hoa Kỳ đăng ký một công cụ tài chính mới, là công cụ nhằm đóng gói cổ phiếu của các công ty tư nhân vào một quỹ để những người tiết kiệm bình thường có thể mua chúng, tương tự như cách họ mua cổ phiếu của một quỹ tương hỗ (xem chú thích mutual funds). Như Tenev đã nói, mục tiêu của họ là mang đến cho các nhà đầu tư “những cơ hội từng chỉ dành riêng cho tầng lớp trên”.
Nếu Tenev thực hiện được ý muốn của mình, ngày càng có nhiều công ty sẽ sớm sẽ trở thành “các công ty có thể đầu tư” mà không cần phải niêm yết trên thị trường chứng khoán – tránh được việc công bố thông tin, kiểm toán và báo cáo hàng quý mà các công ty này phải đối mặt.
Đó là sự khác biệt lớn trong thị trường tài chính giữa các công ty niêm yết công (public) và công ty tư nhân (private) không niêm yết. Một công ty niêm yết (public) trên Sàn giao dịch chứng khoán New York hoặc Nasdaq phải nộp báo cáo tài chính hàng quý cho Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch, nêu chi tiết doanh thu, lợi nhuận, nợ và rủi ro theo các biểu mẫu chi tiết và đầy đủ. Mỗi năm, công ty phải nộp biểu mẫu 10-K có thể dài hàng trăm trang. Các giám đốc điều hành được yêu cầu trả lời các câu hỏi từ các nhà phân tích trong các cuộc gọi thông báo về thu nhập và các tiết lộ của họ được các nhà báo, các đầu tư và cả những người bán khống (short-sellers[14]) xem xét, xoi mói kỹ lưỡng từng tý. Ngược lại, các công ty tư không niêm yết không có nghĩa vụ như vậy. Họ có thể công bố những gì họ chọn và khi họ muốn. Mua cổ phiếu của Microsoft trên sàn giao dịch công khai được cung cấp quyền truy cập vào hàng đống dữ liệu sau mỗi 90 ngày. Mua cổ phiếu của OpenAI (hiện chưa niêm yết công) thông qua một quỹ đầu tư tư nhân có thể chỉ mang lại cho bạn hơn chút ít một tập tin hào nhoáng của nhà đầu tư. Nói cách khác, không hề có sự minh bạch trong việc truy cập (thị trường đầu cơ tài chính) do việc không tiết lộ thông tin đầy đủ.
Điều này đem lại cho chúng ta những rủi ro lớn nhất khi để công chúng tiếp cận với thị trường tài sản các công ty tư chưa niêm yết công khai: các công ty này không có nghĩa vụ phải công bố báo cáo tài chính đã được đánh giá bởi các cơ quan độc lập hoặc đối chiếu định giá trên thị trường thực tế, các nhà quản lý quỹ đầu tư tài chính tư nhân có nhiều quyền tự do định giá bất kỳ giá trị nào họ muốn cho các khoản tài sản do họ nắm giữ.
Khi bạn nghe nói một công ty chưa niêm yết công khai (công ty tư) có giá trị 10 tỷ đô la, đó chỉ là vì một số quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các giám đốc điều hành quỹ đầu tư tư nhân (private-equity[15]) quyết định đó là giá trị thực của nó. Các khoản lỗ trên biểu đồ kinh doanh có thể được làm trơn tru, suy giảm kinh doanh có thể báo chậm lại trong sổ sách và các biến động trong hoạt động của doanh nghiệp có thể được che đậy. Một số người cho rằng đó là một đặc tính chứ không phải là một vài sai sót của việc đầu tư vào các tài sản kém thanh khoản. Nhưng những người khác đã tự đặt ra thuật ngữ riêng cho nó: “niềm tin vào giả định”.
Các công ty tư (chưa niêm yết công khai) đã liên tục định giá tài sản của mình lên hay xuống theo cách vụ lợi trong nhiều năm. Khi thị trường Nasdaq giảm hơn 30% vào năm 2022, nhiều danh mục đầu tư cổ phần tư nhân (private equity) chỉ bị giảm giá nhẹ, trong khi định giá của các công ty khởi nghiệp như Stripe và Klarna bị cắt giảm chỉ vài tháng sau đó, và chỉ sau khi khoảng cách về giá đó trở nên quá rõ không thể bỏ qua được.
Đối với các nhà đầu tư riêng lẻ, điều này có nghĩa là họ có thể không bao giờ thực sự biết giá trị tài sản đầu tư của mình cho đến ngày họ cố gắng bán chúng. Và đối với toàn bộ hệ thống, điều này có nghĩa là hàng nghìn tỷ đô la đang nằm trên bảng cân đối kế toán với những mức giá, tùy thuộc vào từng ngày, chỉ là những cái giá mơ ước mà thôi.
Tuy nhiên, sau nhiều năm vận động hành lang, các khoản đầu tư tư nhân (private investments[16]) có thể sớm sẽ trở thành một phần trong chương trình đầu tư hưu trí 401(k) của bạn.
Trong nhiều thập kỷ, những gã khổng lồ như Blackstone, KKR, Apollo, Carlyle và Brookfield đã huy động vốn từ các nguồn như quỹ hưu trí, quỹ tài trợ[17] và quỹ đầu tư quốc gia[18] – những tổ chức có nguồn vốn khổng lồ và đủ kiên nhẫn để giữ vốn đầu tư trong 10 năm hoặc lâu hơn. Trong vài năm qua, hơn 11 nghìn tỷ đô la đã được đổ vào thị trường đầu tư tài chính tư (private Investments). Nhưng hầu như không có khoản đầu tư nào trong số đó đến từ các hộ gia đình bình thường. Những cá nhân duy nhất có quyền tiếp cận là những người giàu nhất – những người được coi là “nhà đầu tư được công nhận”.
Quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân (private equity) truyền thống là một chiếc hộp khóa kín đối với công chúng. Một công ty có thể huy động một quỹ 10 tỷ đô la, sau đó sử dụng số vốn đó – cộng với số tiền vay được – để mua một số tài sản: chẳng hạn như một danh mục đầu tư (portfolio[19]) gồm nhiều công ty, một khu văn phòng phức hợp hoặc một chuỗi các viện dưỡng lão. Các nhà đầu tư cam kết đưa tiền ngay trước cho một công ty và chờ cả thập kỷ cho công ty đó cố gắng cải thiện và cuối cùng bán các khoản cổ phần của công ty mà họ nắm giữ và chỉ khi đó mới lấy lại được tiền. Lợi nhuận có thể rất “khủng” hết sức ấn tượng – và các quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân hàng đầu có lợi nhuận vượt trội hơn hẳn thị trường chứng khoán. Nhưng cái giá phải trả là thứ mà giới tài chính gọi là thiếu thanh khoản – một cách nói che đậy cho việc từ bỏ quyền kiểm soát tiền của bạn, ít nhất là trong một thập kỷ, mà không có lối thoát sau khi bạn đã ký giấy tờ.
Giờ đây, ngành đầu tư này đang cố gắng nhắm đến một thị trường lớn hơn rất nhiều: các nhà đầu tư cá nhân và các quỹ tiền tiết kiệm dành cho hưu trí. Phần thưởng cho các nỗ lực này là hết sức lớn. Người Mỹ nắm giữ hơn 45 nghìn tỷ đô la tiền tiết kiệm hưu trí. Khoảng 9 nghìn tỷ đô la đó nằm trong quỹ 401(k), là quỹ mà các công ty đầu tư cổ phần tư nhân (private equity) và công ty đầu tư mạo hiểm (venture firm) đang nhắm đến. Ngay cả việc chiếm được một phần nhỏ của thị trường đó – chẳng hạn 5% – cũng sẽ tương đương với việc quản lý hàng trăm tỷ đô la vốn mới và với hàng tỷ đô la phí cố định, bất kể hiệu quả như thế nào.
Để đạt được tiêu chí này, người ta đang tạo ra các phương tiện đầu tư mới trông rất giống quỹ tương hỗ (mutual funds) có tính thanh khoản, ngay cả khi bản thân các khoản tài sản đó không phải như vậy. Các sản phẩm có tên khác nhau, nhưng mục đích là giống nhau: Chúng cho phép các nhà đầu tư thường nhật (everyday investors) đầu tư tiền vào những thứ như vốn cổ phần tư nhân (private equity) hoặc bất động sản, đồng thời hứa hẹn một số khả năng thanh khoản tối thiểu. Vấn đề là việc rút tiền bị giới hạn. Thường thì các nhà đầu tư có thể yêu cầu hoàn lại tiền của họ, nhưng chỉ một phần nhỏ, khoảng 5 phần trăm của quỹ đầu tư có thể được rút ra trong mỗi một quý bất kỳ – vì vậy nếu quá nhiều nhà đầu tư vội vã thoát vốn ra cùng một lúc, bạn có thể sẽ phải đợi mới đến lượt mình để bán. Không giống như quỹ tương hỗ (mutual funds) hoặc ETF, bạn không thể nhấn “bán” và luôn nhận được tiền mặt của mình trong một hoặc hai ngày. Tiền của bạn bị kẹt cho đến khi các nhà quản lý quỹ quyết định rằng họ có thể bán tài sản để đáp ứng việc hoàn trả vốn.
Quỹ bất động sản BREIT nổi tiếng hàng đầu của Blackstone đã tăng trưởng hơn 60 tỷ đô la. Quỹ tín dụng tư nhân (private equity) BCRED của công ty đạt gần 50 tỷ đô la. Cùng với các đối thủ khác của họ như KKR, Apollo và Starwood, các quỹ “bán thanh khoản” này đã huy động được hàng trăm tỷ đô la vốn trong vòng chưa đầy một thập kỷ – nhanh hơn hầu hết mọi lĩnh vực tài chính khác.
Sự tăng trưởng của lĩnh vực đầu tư này thật vô cùng ngoạn mục – nhưng cũng mong manh như chính mô hình đầu tư được tạo ra nó. Sự mất hòa hợp trong mô hình đó đã được thực tế chỉ ra. Vào cuối năm 2022, quỹ BREIT của Blackstone đã chạm ngưỡng giới hạn rút vốn khi quá nhiều nhà đầu tư cố gắng rút tiền cùng một lúc. Các yêu cầu rút vốn vượt quá mức trần 5% hàng quý. Blackstone đã phải hạn chế việc rút vốn, buộc một số nhà đầu tư phải chờ hàng tháng trời mới nhận được tiền. Quỹ bất động sản Starwood, một đối thủ của Blackstone, cũng rơi vào tình trạng tương tự, với yêu cầu rút vốn gần một tỷ đô la bị kẹt lại.
Các nhà quản lý nhấn mạnh rằng danh mục đầu tư của họ rất vững chắc – và cơ chế đầu tư này đã hoạt động hiệu quả. Nhưng đối với các nhà đầu tư, trải nghiệm này giống như một cái bẫy. Việc bỏ tiền vào rất dễ dàng. Nhưng khi nào có thể rút tiền ra thì nó lại bất ngờ trở nên bất định.
Bây giờ hãy tưởng tượng trình trạng tương tự lan rộng sang các tài khoản hưu trí. Các cơ quan quản lý đã bắt đầu mở cửa cho những người tiết kiệm tiền hưu trí 401(k) đầu tư vào các quỹ tín dụng và vốn cổ phần tư nhân bán thanh khoản. Đối với những người lao động nghĩ rằng họ đang đầu tư tiền tiết kiệm hưu trí của họ vào việc mua cổ phần trong các công ty khởi nghiệp và các công ty tư (chưa niêm yết chứng khoán công) đang trên đà phát triển cao, những điều khoản in chữ nhỏ li ty trong bản hợp đồng đầu tư có thể gây họ bị sốc: Bạn có thể không lấy lại được tiền khi bạn cần tiền nhất. Tuy nhiên, lĩnh vực vốn cổ phần tư nhân hứa hẹn một khoản lợi nhuận cao bất ngờ. Các công ty như Blackstone và KKR sẽ thu phí khổng lồ trên dòng tiền đầu tư đổ vào, bất kể cuối cùng khoản đầu tư có sinh lời hay không. Họ đã vận động hành lang mạnh mẽ ở Washington để giành được quyền tiếp cận các quỹ hưu trí này, và họ đã thành công. Bây giờ câu hỏi đặt ra là: Liệu đầu tư theo mô hình đó có được không? Đây sẽ là một bài kiểm tra thực tế và cực kỳ rủi ro về việc liệu những góc khuất tài chính phức tạp nhất của mô hình đó có thể được mở ra một cách an toàn cho hàng triệu người tiết kiệm thông thường hay không.
Mọi cơn hoảng loạn lớn trong lĩnh vực tài chính hiện đại đều bắt đầu theo cùng một cách: vay mượn quá nhiều. Năm 1929, đó là các khoản vay ký quỹ (margin loans) – mọi người đều bị cuốn hút vào việc mua cổ phiếu bằng tiền vay mượn, và họ không thể lường trước được một cuộc suy thoái. Năm 2008, đó là các khoản vay nợ mua nhà dưới mức chuẩn (subprime mortgages[20]). Hàng triệu gia đình trên khắp đất nước Mỹ ngập trong nợ nần, và nhà cửa của họ có giá trị thấp hơn cả số tiền họ đã bỏ ra để mua chúng.
Trong cả hai trường hợp, các ngân hàng đều không có đủ tiền. Vào những năm 1930, khoảng 9.000 ngân hàng đã phá sản. Sau cuộc khủng hoảng năm 2008, chính phủ Hoa Kỳ đã cứu một số ngân hàng lớn nhất khỏi nguy cơ sụp đổ, sáp nhập các ngân hàng khác và để khoảng 300 ngân hàng phá sản.
Vậy hiện nay đòn bẩy tài chính nằm ở đâu? Nó đã chuyển từ các ngân hàng sang một thị trường mới gọi là tín dụng tư nhân (private credit) – các khoản vay trực tiếp cho các công ty, không phải do các ngân hàng truyền thống thực hiện mà do các công ty như Apollo và KKR tạo ra các quỹ mới rồi sau đó cho vay lại. Cái từng là chiến lược đặc biệt dành cho các chuyên gia tài chính giờ đây đã trở thành một ngành công nghiệp trị giá 2 nghìn tỷ đô la, lớn khoảng gấp năm lần so với năm 2009 – với các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư quốc gia và các chương trình hưu trí đổ vào. Một số công ty, như Apollo, đã thành lập công ty bảo hiểm riêng để họ có thể thu phí bảo hiểm và đầu tư chính số tiền đó vào các quỹ tín dụng tư nhân của riêng họ.
Lời hứa hẹn rất đơn giản: lợi suất cao hơn thị trường trái phiếu công, với mức độ biến động dường như thấp hơn vì các khoản vay được giữ ở mức định giá “ổn định” – nghĩa là, giống như trong vốn cổ phần tư nhân (private equity), các nhà quản lý quỹ có quyền quyết định mức định giá tại bất kỳ thời điểm nào.
Mặc dù tín dụng tư nhân (private credit) đã phát triển phần lớn ngoài phạm vi quản lý, các cơ quan quản lý đang để ý đến. Một nghiên cứu do chi nhánh Fed (Ngân hàng Dự trữ Liên bang) ở Boston công bố gần đây đã cảnh báo rằng các ngân hàng “vẫn chịu rủi ro tín dụng gián tiếp từ các khoản vay tín dụng tư nhân, mặc dù họ không trực tiếp tạo ra hoặc nắm giữ các khoản vay đó”. Nói cách khác, ngay cả khi các khoản vay nằm trong sổ sách của một công ty bảo hiểm hoặc một quỹ tư nhân, hệ thống ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm – thông qua các cơ sở cho vay, các biện pháp hỗ trợ thanh khoản và các sản phẩm tài chính có cấu trúc phức tạp. Và, như nghiên cứu của Fed đã chỉ ra, sự phát triển của thị trường này là “con dao hai lưỡi”: Nó có thể cung cấp tín dụng trong thời kỳ khó khăn về vốn, nhưng cũng có thể tạo điều kiện cho những người vay có yếu tố rủi ro (risky borrower[21]) vay mượn quá mức ngoài khả năng khi tiền trở nên rẻ (lãi suất thấp) và dễ dàng vay mượn.
Và rồi lại xuất hiện một vấn đề mới: Cũng giống như các vốn cổ phần tư nhân (private equity) và vốn đầu tư mạo hiểm (venture capital ) đang lên kế hoạch khai thác quỹ hưu trí của các nhà đầu tư riêng lẻ, ngành tín dụng tư nhân (private credit) cũng đang làm vậy – một lần nữa đóng gói tín dụng tư nhân vào các công cụ tài chính bán thanh khoản nhưng lại được hứa hẹn là có tính thanh khoản. Thí nghiệm nổi bật nhất cho đến nay được gọi là PRIV, một quỹ ETF của quỹ State Street được hỗ trợ một phần bởi công ty tài chính Apollo. Và còn nhiều hơn nữa sẽ được triển khai.
Trong một cuộc phỏng vấn, Lloyd Blankfein, cựu giám đốc điều hành của Goldman Sachs, đã nói với tôi: “Khi nghĩ về một cuộc khủng hoảng tài chính khác, chú trọng thích hợp là các tài sản có tính rủi ro và đòn bẩy ẩn (hidden leverage[22]). Nhưng chúng ta cần chú ý hơn đến các kênh đầu tư mới đã và đang được các nhà quản lý thay thế mở ra cho các tài sản khó định giá và kém thanh khoản của họ.” Ông nói rằng các công ty đã vận động hành lang ở Washington để được phép làm tất cả những điều này cuối cùng có thể sẽ phải hối hận. Ông nói, “nếu họ áp đặt tổn thất cho Main Street (ý nói người dân nói chung) thay vì tổn thất cho các tổ chức và các nhà đầu tư mẹo mực. Họ đang đánh giá thấp sự khuếch đại rủi ro của mình,”
Sự thật là thị trường có khả năng phục hồi đáng kinh ngạc. Theo thời gian, bất kỳ ai chỉ đặt cược vào sự thăng tiến hầu như luôn được đền đáp. Đó là câu chuyện đã diễn ra từ rất lâu trước năm 1929. Sự tăng trưởng liên tục hàng năm này đã khiến những người có quan điểm hoài nghi dễ dàng bị gạt bỏ ra ngoài – như những người chẳng qua là không thể hiểu được sức mạnh của những đổi mới trong nền tài chính – như nhà kinh tế học Roger Babson, người đã tuyên bố vào mùa thu năm 1929: “Sớm muộn gì một cuộc khủng hoảng cũng sẽ xảy ra và sẽ cuốn phăng các cổ phiếu cao nhất”. (Trong trường hợp của Babson, thị trường đã giảm trong thời gian ngắn sau lời cảnh báo của ông, rồi lại tăng trở lại trước khi cuộc khủng hoảng xảy ra.) Đó cũng chính là điều khiến cho việc đầu cơ vừa hấp dẫn vừa đồng thời nguy hiểm. Nhưng điều khác biệt là ngày nay ranh giới mới nhất trong lĩnh vực tài chính được thiết kế để lách qua chính những hàng rào bảo vệ được tạo ra sau cuộc khủng hoảng tài chính (năm 1929) giúp ngăn chặn thảm họa trong gần một thế kỷ.
Những người có xu hướng tin mô hình tài chính này tốt đẹp có lẽ nên học hỏi từ danh hài Groucho Marx vào những năm 1920. Trước khi cuộc khủng hoảng (1929) xảy ra, ngay cả danh hài nổi tiếng này cũng đã mua cổ phiếu ký quỹ (stock on margin) và thường xuyên dành hàng giờ tại công ty môi giới địa phương của mình, chi nhánh Newman Brothers & Worms ở New York, để đọc bảng tin tài chính.
Khi anh thắc mắc hỏi giám đốc chi nhánh đầu tư về sức mạnh của một số cổ phiếu, anh đã được trả lời: “Này, ông Marx, đây là vấn đề lớn hơn cả hai chúng ta. Đừng chống lại nó. Cứ yên tâm rằng ông sẽ trở thành một người rất giàu có.”
Sau vụ sụp đổ, cuối cùng Marx phải thế chấp nhà để trả nợ vay ký quỹ. Anh tìm đến người quản lý và mắng nhiếc ông ta.
“Chẳng phải ông là người đã nói rằng không gì có thể sai lầm – rằng chúng ta đang ở trong một thị trường toàn cầu sao?” Groucho hỏi.
“Tôi nghĩ là tôi đã sai,” vị giám đốc chi nhánh ngượng ngùng đáp.
“Không, tôi mới là người phạm sai lầm,” Marx đáp trả. “Tôi đã nghe lời ông.”
Nguyễn Trung Dân
Dịch và bổ sung chú thích
Cập nhật. Mời anh chị xem thêm bài viết trong cùng mạch của anh Trần Quốc Hùng năm 2023:
Financialization has increased economic fragility (Tài chính hóa đã làm tăng thêm sự mong manh của kinh tế):
[1] margin loans (Khoản vay ký quỹ): là một hạn mức tín dụng từ một công ty môi giới cho phép bạn vay tiền bằng cách sử dụng các điều kiện trong tài khoản đầu tư của bạn làm tài sản thế chấp. Nhà đầu tư được chấp thuận có thể sử dụng khoản vay cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm mua thêm chứng khoán hoặc sử dụng tiền mặt cho các nhu cầu không liên quan đến đầu tư.
[2] investment trusts (quỹ đầu tư tín thác): là một loại quỹ đầu tư tập thể, nơi các nhà đầu tư mua cổ phần trong quỹ để đẩy mạnh tiếp cận với nhiều loại hình đầu tư khác như cổ phiếu, trái phiếu hoặc bất động sản.
[3] mutual fund (quỹ tương hỗ) như một rổ đầu tư (gồm các cổ phiếu, trái phiếu hoặc các tài sản khác) được một nhà quản lý tài chính chuyên nghiệp giám sát. Nó cho phép bạn phân bổ tiền vào nhiều khoản đầu tư khác nhau, giúp quản lý và giảm rủi ro
[4] private equity (vốn cổ phần tư nhân) là một loại hình đầu tư mà các công ty huy động vốn để mua lại và quản lý các công ty chưa niêm yết công hoặc tư nhân hóa các công ty đang niêm yết công, nhằm mục đích bán lại để kiếm lời, bao gồm việc gom tiền của các nhà đầu tư, thường để đổi lấy cổ phiếu của một công ty tư, hay các chiến lược đầu tư mạo hiểm.
[5] venture capital (vốn đầu tư mạo hiểm): là một hình thức đầu tư vốn cổ phần tư nhân và là một loại hình tài trợ cho các công ty khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ có tiềm năng tăng trưởng dài hạn.
[6] private credit (Tín dụng tư nhân): là một hình thức cho vay mà các bên cho vay phi ngân hàng, chẳng hạn như các công ty cổ phần tư nhân hoặc các quỹ chuyên biệt, cung cấp khoản vay trực tiếp cho các doanh nghiệp, thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản vay này thường không được giao dịch trên thị trường đại chúng như cổ phiếu hoặc trái phiếu, và thường được điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu của người vay.
[7] Quỹ 401(k): là một chương trình tiết kiệm hưu trí cho phép người lao động đầu tư một phần tiền lương của mình vào 1 quỹ chỉ dành hưu trí sau này của người lao động. Số tiền này thường được tài trợ một phần do công ty thuyển dụng, ngoài ra còn được hoãn hặc miễn thuế cho đến khi được rút tiền ra khi nghỉ hưu (sau 59 tuổi rưỡi). Chỉ sau đó mới phải chịu thuế tùy thuộc vào loại chương trình.
[8] private company (công ty tư nhân) là những công ty chưa niêm yết trên sàn chứng khoán, trái với các công ty đang giao dịch trên thị trường chứng khoán còn được gọi là public company thường bị giám sát chặt chẽ bởi luật lệ, giới truyền thông và cả công chúng.
[9] Đạo luật Dodd-Frank: là một đạo luật toàn diện được thông qua năm 2010 để ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Mục tiêu chính của đạo luật này là cải thiện luật lệ về tài chính, tăng cường trách nhiệm giải trình và minh bạch, và bảo vệ người tiêu dùng khỏi các hành vi tài chính lạm dụng …
[10] Tác giả dùng cụm từ có ý chỉ những người bình thường hay đầu tư cá nhân (Main Street) khác với giới tư bản và đầu tư tài chính (Wall Street)
[11] Financial leverage (đòn bẩy tài chính): là bất kỳ kỹ thuật nào liên quan đến việc vay vốn để mua một khoản đầu tư. Đòn bẩy tài chính sử dụng tiền vay để tăng vốn khả dụng, do đó tăng nguồn vốn khả dụng cho các khoản đầu tư (có thể rủi ro). Nếu thành công, điều này có thể tạo ra lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, nếu không thành công, sẽ có nguy cơ không trả được nợ vay.
[12] “everyday investors ” là các nhà đầu tư cá nhân sử dụng tiền của mình để đầu tư. Họ thường đầu tư số tiền nhỏ hơn và có thể là bất kỳ ai, khác với các nhà đầu tư có tổ chức, những người quản lý số tiền lớn cho các quỹ hay tổ chức tài chính.
[13] investment trusts (quỹ đầu tư tín thác): là một loại quỹ đầu tư tập thể, nơi các nhà đầu tư mua cổ phần trong quỹ để đẩy mạnh tiếp cận với nhiều loại hình đầu tư khác như cổ phiếu, trái phiếu hoặc bất động sản.
[14] short-sellers (người bán khống) là những người kiếm lời bằng cách vay cổ phiếu của một công ty nào đó, bán ngay lập tức (khi cổ phiếu đang có giá), rồi mua lại khi giá thấp hơn để trả lại số cổ phiếu họ vay. Họ kiếm lời khi giá cổ phiếu giảm, hưởng lợi từ chênh lệch giữa giá bán ban đầu và giá mua lại thấp hơn. Chiến lược này ngược lại với cách đầu tư truyền thống, trong đó nhà đầu tư mua thấp và bán cao.
[15] private equity (vốn cổ phần tư nhân) là một loại hình đầu tư mà các công ty huy động vốn để mua lại và quản lý các công ty chưa niêm yết công hoặc tư nhân hóa các công ty đang niêm yết công, nhằm mục đích bán lại để kiếm lời, bao gồm việc gom tiền của các nhà đầu tư, thường để đổi lấy cổ phiếu của một công ty tư, hay các chiến lược đầu tư mạo hiểm.
[16] private Investmenets (đầu tư tư nhân) là tài sản tài chính nằm ngoài các tài sản trên thị trường tài chính công khai như cổ phiếu, trái phiếu và tiền mặt, như tín dụng tư nhân, bất động sản, tài nguyên thiên nhiên, vốn cổ phần tư nhân, cơ sở hạ tầng và quỹ đầu cơ …
[17] endowments fund (quỹ tài trợ) là một khoản tài trợ cho một tổ chức phi lợi nhuận, duy trì số tiền gốc trong khi sử dụng thu nhập đầu tư cho các mục đích cụ thể do nhà tài trợ xác định. Hầu hết các quỹ tài trợ đều có những hạn chế giới hạn việc sử dụng quỹ trong phạm vi thu nhập đầu tư của quỹ, không sử dụng tiền gốc.
[18] sovereign wealth funds (quỹ đầu tư quốc gia) là các quỹ đầu tư do nhà nước sở hữu, quản lý dự trữ thặng dư của một quốc gia nhằm tạo ra lợi ích kinh tế cho quốc dân. Quỹ thường được tài trợ bởi nguồn thu từ xuất khẩu hàng hóa, dự trữ ngoại hối hoặc thặng dư ngân sách.
[19] Portfolio (danh mục đầu tư): Thuật ngữ “danh mục đầu tư” dùng để chỉ bất kỳ sự kết hợp nào của các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu và tiền mặt. Danh mục đầu tư có thể được nắm giữ bởi các nhà đầu tư cá nhân hoặc được quản lý bởi các chuyên gia tài chính, quỹ đầu cơ, ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Một nguyên tắc chung được chấp nhận là danh mục đầu tư được thiết kế dựa trên khả năng chịu rủi ro, khung thời gian và mục tiêu đầu tư của nhà đầu tư. Giá trị tiền tệ của mỗi tài sản có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận của danh mục đầu tư.
[20] subprime mortgages (nợ mua nhà dưới mức chuẩn): là khoản vay mua nhà dành cho người vay có lịch sử tín dụng kém hoặc có điểm tín dụng thấp và không đủ điều kiện “chuẩn” vay tiền mua nhà thông thường. Các khoản vay này đi kèm với lãi suất và phí cao hơn để bù đắp cho rủi ro vỡ nợ gia tăng.
[21] Risky borrower (người vay có tính rủi ro) là người vay vốn có khả năng vỡ nợ cao hơn, dựa trên lịch sử tài chính và các yếu tố khác. Việc cho vay những cá nhân này mang lại rủi ro tín dụng cao hơn cho các tổ chức tài chính.
[22] hidden leverage (Đòn bẩy ẩn) là các khoản đầu tư tài chính làm tăng rủi ro nhưng không được ghi nhận rõ ràng trên bảng cân đối kế toán của công ty, khiến các nhà đầu tư và cơ quan quản lý khó phát hiện.