“MỘT ĐỜI CÙNG SÁCH”
(Do nhà báo Đăng Nguyên thực hiện)
Sự nhút nhát của tôi trong thực tế là cái ô, cái khiên. Nó đã che chở và cho phép tôi phát triển.
Mahatma Gandhi
Có một loại yếu đuối nhất định cho phép chúng ta nhìn thấy sự vật hiện ra trong chân thực tại gai gốc của nó, đến tận đáy sâu của bản chất nó. Sự yếu đuối này làm được việc mà một lực lớn lắm mới làm được, trong khi tất cả các năng lượng bậc trung đều che mắt và đánh lừa chúng ta.
Max Raphael
Anh có một đam mê sách gần như không cưỡng được, có nhu cầu tự giáo dục mình tiếp và nghiên cứu, nếu em muốn gọi như thế cũng được, giống như anh có nhu cầu ăn để sống vậy.
Vincent van Gogh
Thư gửi cho người em Theodore
Lời nói đầu
Dưới đây là bài phỏng vấn được nhà báo Đăng Nguyên của báo Thanh Niên thực hiện nhân dịp Giải Sách Hay 2019 được trao cho tác phẩm ĐẠI HỌC tháng 9 vừa qua. Tôi rất cảm ơn Đăng Nguyên và báo Thanh Niên đã cho tôi cơ hội để truyền đi một số trải nghiệm riêng tư có thể hữu ích đến các bạn trẻ, những người đang hình thành hay tìm con đường của mình, và tìm bản sắc, để biết ta là ai. Mình phải, can đảm nếu cần, chính là mình, authentic với mình, mới có một cuộc phát triển tối đa những gì của mình đã được tạo hóa ban cho. Con người đích thực hơn con người thường của mình nhiều lắm chứ. Mỗi con người đều có tiếng gọi. Hãy biết lắng nghe và nhận ra nó, dù phải trải qua khó khăn, dù muộn màng, để khám phá ra “Nguyên tố”, The Element, của chính mình. Nhìn lại, tôi thấy mình đã trải nghiệm ba lần đam mê trong cuộc đời, mà nếu không có, tôi sẽ không biết sống làm sao. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm đầu trung học ở tuổi teen, trước cái đẹp, cái lô-gic lôi cuốn của thế giới toán học, giúp tôi “mài sắc” tư duy, giống như tác dụng của các môn học có tính “khai phóng” của các đại học thời Trung cổ. Lần thứ hai những năm đại học Sài gòn, trước tòa nhà đồ sộ và cao cấp của tri thức đại học, nhất là của toán học hiện đại, ở đó, kiến thức trung học không giúp ích trực tiếp, mà mình phải vận dụng lối tư duy khác, tinh tế hơn và trừu tượng hơn. Tư duy hình học Euclid được tiếp nối bởi tư duy vi tích phân. Ở đại học, tôi thật sự bước vào cổng tòa nhà di sản tri thức vĩ đại mấy nghìn năm của nhân loại. Đam mê lần thứ ba diễn ra trong những năm tôi sống ở Berlin. Đó cũng là nỗi đam mê lớn nhất trong đời tôi, đam mê trước vũ trụ của con người, giúp tôi “lột xác” để trưởng thành. Trước đây, tôi học vì đam mê cái đẹp của chuyên môn, chân lý khoa học là chính, nhưng giờ đây tôi đam mê cái vĩ đại của con người. Nếu cuộc đời và sự học chỉ diễn ra theo đường thẳng, không có những lần đam mê để có những bước phát triển nhảy vọt, thì chắc có thể tôi dần dần mất đi ngọn lửa cảm hứng, sẽ ngã lòng dừng lại vĩnh viễn đâu đó trên cuộc hành trình, với cái giá phải trả là tôi không còn là tôi hôm nay nữa. Chính con người và sự vĩ đại của nó, với tất cả tính nhân văn cao cả của nó, hòa lẫn với cái vĩ đại của vũ trụ tự nhiên từng truyền cảm hứng bất tận cho nhân loại có những khám phá vĩ đại, đã cho tôi nguồn cảm hứng tại sao phải đi tìm chân lý. Niềm cảm hứng ấy cháy mãi, như ngọn lửa bất tử, cũng như ý thức mạnh mẽ, sáng sủa hơn bao giờ hết về thế giới rộng lớn. Cái “cô đơn và nhút nhát” bấy lâu nay giờ tan biến trong cái vũ trụ bao la của con người. Có thể nói, mỗi lần đam mê bùng cháy là mỗi lần giúp tôi thay đổi góc độ lộ trình, và thoát khỏi những khó khăn nhất định trong cuộc đời. Nhưng lần đam mê cuối cùng trong những năm tháng ở Berlin mới là lần quyết định, giúp tôi tìm thấy con người thật của mình. Tôi như được sinh ra lần thứ hai, và nhìn thấy ánh sáng của nhân loại – trên một bầu trời mới. Thế giới nhỏ hẹp của tôi mất đi ranh giới của nó để hòa nhập vào vũ trụ bao la, và tầm nhìn của tôi được giải phóng khỏi những bức tường hạn hẹp của cuộc sống vật chất đang làm mờ mịt trước mặt. NXX
***
Bài phỏng vấn được đăng trên báo Thanh Niên Chủ nhật, ngày 6/10/2019:
https://thanhnien.vn/giao-duc/nguyen-xuan-xanh-mot-doi-cung-sach-1133853.html
Tôi có thêm vào một số đoạn nhỏ của bản gốc mà do khuôn khổ tờ báo đã không thể hiện được.

(Từ 1980-86 tôi làm nghiên cứu và giảng dạy chỉ ở ĐH Kỹ thuật Berlin)
Ông mê toán học từ thời học trung học và Đại học Khoa học Sài Gòn. Sau khi học xong đại học, con đường đi du học Pháp bị tạm tắt, ông chuyển qua đi Đức làm công tác giảng dạy và nghiên cứu 6 năm.
Phóng viên Thanh Niên đã có cuộc trò chuyện với ông để thấy được ông mê sách đến chừng nào…
Trên carte de visite [danh thiếp] của ông, tôi thấy có một từ khá lạ trong chức danh là “Dr. Habil.”. Nó nghĩa là gì, thưa ông?
“Habil.” là viết tắt của “Habilitation”, tên gọi của một “cấp giá trị” trong bậc thang học thuật của Đức, nhìn nhận năng lực nghiên cứu độc lập và giảng dạy, giá trị của những công trình nghiên cứu của ứng viên sau tiến sĩ. Với chứng chỉ habilitation, nhà khoa học được gọi là “Privatdozent”, được cấp venia legendi, tức chính thức được phép giảng dạy tại đại học, nhưng chưa có lương, và chờ để nộp đơn xin làm giáo sư.
Ở Berlin, tôi có được một vị trí giảng dạy và nghiên cứu 6 năm. Thời gian ở Berlin là những năm đổi đời của tôi. Tôi trở thành một con người khác hoàn toàn. Berlin có một sức hút mãnh liệt với tôi… Nhưng khởi đầu của cuộc biến đổi trong tôi là cái chết đột ngột của một nhà văn Đức: Peter Weiss, người rất yêu mến Việt Nam mà tôi từng ngưỡng mộ. Qua đêm tôi đã trở thành con người đọc sách một cách “thôi thúc và giông bão”, như một người đói khát lâu ngày. Tôi có viết về sự đổi đời đó trong bài Những ngày hải ngoại có tính tự sự đăng trên báo Phù Sa của Hội người Việt tại Berlin năm 1984. Hàng nghìn trang nhật ký cũng đã được viết ra ghi lại cuộc đổi đời đó.
Lý do trở về nước là gì, thưa ông?
Trước đây, tôi cứ nghĩ, có lẽ mình không bao giờ rời bỏ nước Đức được, vì quốc gia này quá vĩ đại, học suốt đời cũng không hết. Nhưng rồi, sau vài năm “lột xác” ở Berlin, tôi cảm thấy mình đã thành một con người tự lập được về tư tưởng và học thuật, “đủ lông, đủ cánh” để có thể bay đi mà vẫn tồn tại với bản sắc con người mới của mình không sợ tàn lụi, hay đánh mất mình trong cuôc sống thường nhật. Tủ sách đã trở thành thế giới của tôi, và nó sẽ theo tôi suốt cuộc hành trình sắp tới.
Tôi đã quyết định trở về Việt Nam. Có thể tôi chưa trả lời hết câu hỏi tại sao, xin để vào một dịp khác sẽ nói thêm. Nhưng thực tế, tôi muốn có một đời sống giản dị, như tôi đã từng sống ở Việt Nam, và tôi muốn làm một cái gì cho quê hương, như tâm nguyện của tôi khi nhận lãnh học bổng quốc gia để ra đi như một sứ mệnh. Khi tôi về, gia tài quý nhất của tôi là cái thư viện. Các nhân viên hải quan khám các thùng sách của tôi đến mỏi mắt và “nhàm chán” và “mệt nghỉ”. Kỳ quá, sao ông Việt kiều này không mang thứ gì quý hơn mà chỉ toàn có sách vậy? Nhưng không ai hiểu rằng, đối với tôi, sách là tài sản tinh thần còn quý hơn tiền bạc, của cải.
Tôi rất cảm ơn nước Đức, và Berlin, như quê hương thứ hai, “cái nôi đổi đời” của tôi, cảm ơn những công viên và khu rừng của các thành phố mà tôi đã đến, nuôi dưỡng tôi vẫn “xanh tươi” chứ không khô héo. Về tinh thần, tôi có lẽ còn xanh tươi hơn gấp bội, nhờ những gì tôi đã học được trong thời gian ở Đức, đặc biệt những năm ở Berlin.
Động lực nào khiến ông viết rất nhiều sách trong thời gian ở Đức?
Tôi thực sự bắt đầu viết vào đầu những năm 2000. Quyển sách đầu tiên của tôi là “Nước Đức Thế kỷ XIX – Những thành tựu khoa học và kỹ thuật” như cái tên của lần xuất bản đầu tiên năm 2004. Những năm đó, Viện Goethe bắt đầu tổ chức triển lãm giáo dục đại học Đức cho du học sinh Việt Nam – một tín hiệu tốt lành cho Việt Nam.
Tôi viết quyển sách để muốn nói lên những truyền thống tốt đẹp về giáo dục, khoa học và kỹ thuật của dân tộc Đức, và tấm gương của một quốc gia lạc hậu, phong kiến, bị “toàn trị”, bị thất trận đau đớn trước Napoleon chỉ trong một đêm vào năm 1806. Họ đã quyết tâm làm một cuộc lội ngược dòng lịch sử ngoạn mục với các cuộc cách mạng giáo dục đại học (Humboldt), khoa học và công nghiệp, để sau hơn nửa thế kỷ, họ trở thành một quốc gia hùng mạnh ở châu Âu.
Cuộc vươn lên thần kỳ này về sau đã truyền cảm hứng cho những nhà cải cách Minh Trị. Quyển sách Nước Đức đã nhận được Giải Sách Hay năm 2017. Giáo sư Trần Văn Thọ của Đại học Waseda (Nhật Bản) khi nhận được bản in mới năm 2019, nói rằng: “Đây sẽ là một trong những tác phẩm quan trọng trong tủ sách của tôi”.
Rồi một cơ hội thứ hai đã đến với tôi có tính thử thách. Năm 2005, thế giới kỷ niệm “Năm quốc tế Vật lý” và “100 năm thần kỳ” của Albert Einstein, năm (1905) mà chàng thanh niên Albert 26 tuổi đang làm việc ở Sở Sáng chế Thụy Sĩ đã công bố 5 bài báo, trong đó có thuyết tương đối hẹp, làm thay đổi vĩnh viễn bộ mặt của ngành vật lý thế giới. Tôi phải chạy đua với thời gian để viết, và tôi phải cần đến khoảng 2 năm trời để hoàn thành tác phẩm có tên Einstein. Lúc đó tôi vẫn còn đi làm công ty để kiếm sống, và mới có con, nên thời gian chật vật. Cuốn sách ra đời đầu năm 2007 và năm sau nhận được “Giải Vàng Sách hay 2008”, Giải thưởng Sách Việt Nam do Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức. Tiếng vang rất lớn. Lần đầu tiên Việt Nam có một quyển sách về cuộc đời của Einstein và các lý thuyết khoa học của ông. Báo Tuổi Trẻ đã trích đăng nhiều kỳ, giúp cho hình ảnh và những thông điệp của ông được truyền đi xa.
Từ đó, tôi tham gia cùng một số nhà khoa học trong và ngoài nước tổ chức một loạt số Kỷ yếu để kỷ niệm những nhân vật lịch sử cũng như những sự kiện quan trọng trong đời sống khoa học. Trong đó, ngoài hai số kỷ niệm hai nhà toán học Việt Nam là Đặng Đình Áng và Hoàng Tụy lúc hai ông 80 tuổi, có thêm Kỷ yếu Max Planck, một quyển sách rất có giá trị về thuyết lượng tử và Max Planck; rồi Thiên văn học và Galilei, Thuyết tiến hóa và Darwin, nhân UNESCO kêu gọi kỷ niệm những sự kiện lịch sử này năm 2009.
“Ngày về tóc hãy còn xanh” – một trong những cái tết quê hương đầu tiên (Tao Đàn)
Năm 2010, một sự kiện quan trọng khác đến mời gọi: Đại học Humboldt kỷ niệm đúng 200 năm thành lập, 1810 – 2010. Đó là mô hình đại học nghiên cứu của thế giới. Chúng tôi vận động tối đa giới học giả và các nhà nghiên cứu để cho ra được quyển kỷ yếu cho sự kiện quan trọng này, với sự đóng góp của khoảng 50 nhà khoa học và giáo dục. Đề tài này đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu lịch sử đại học thế giới của tôi sau đó. Năm đó, Giáo sư Ngô Bảo Châu được giải Fields toán học, một sự kiện làm nức lòng toàn thể người Việt trên khắp thế giới tưởng như trong mơ. Anh Châu cũng đồng ý đứng chung vào nhóm chủ biên với chúng tôi, thật hết sức quý hóa. Quyển này được Giải Sách Hay năm 2012. Tinh thần giáo dục đại học thế giới bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam.
Tiếp theo là quyển Kỷ yếu về Hạt Higgs, khi hạt này đã được tìm thấy năm 2012 ở cỗ máy gia tốc khổng lồ LHC của trung tâm CERN. Đây cùng là số kỷ yếu cuối cùng trước khi tôi tập trung vào dòng sách tôi đang ấp ủ cho đại chúng. Tất cả có 7 số kỷ yếu trong vòng 7 năm.
Ghi chép nhật ký những năm 1980
Các sách của ông viết có hàm lượng tri thức rất lớn, cố gắng đưa ra những điều thú vị nhất, hay nhất mà ông tâm đắc. Có lẽ lý do đó khiến bạn đọc thích thú và đánh giá cao. Ông vẫn đi theo con đường đấy chứ?
Những năm ở Berlin, tôi thấy tiếc làm sao rằng mình đã không đọc được những quyển sách hay thời trẻ. Trong đời tôi, chưa bao giờ có một người thầy hay người bạn nói cho vài câu định hướng để mình suy nghĩ. Tất cả đều do tôi tự lần mò tìm tòi. Chính vì thế, tôi thấy có trách nhiệm rất lớn truyền bá tri thức cho giới trẻ.
Những gì tôi viết, trước nhất, phải làm cho tôi rung động từ trái tim và khối óc, và khai sáng chính tôi, thì tôi tin nó cũng sẽ làm như thế đối với người đọc. Thường có nhiều đêm tôi trằn trọc không ngủ được khi đọc được một quyển sách hay mới về, tôi thấy vô cùng nóng lòng muốn dịch ngay sang tiếng Việt cho người Việt đọc và nói: Đây là quyển sách hay các bạn ơi. Đây là những tri thức chúng ta không thể thiếu, điều kiện tiên quyết để phát triển bản thân và xây dựng đất nước.
Một trong những cuốn sách sắp tới tôi chủ trì xuất bản sẽ là cuốn “Những bí mật về thung lũng Silicon”. Chúng ta đang thành lập những thung lũng Silicon Việt Nam, cả thế giới đều có giấc mơ như thế, nên rất cần có một quyển sách nói cặn kẽ về hệ sinh thái này, cần hiểu tại sao mảnh đất nguyên thủy như thung lũng Silicon không có gì hết ngoài nông nghiệp và một cơn sốt vàng hơn một trăm năm trước nhưng rồi từ từ biến thành một trung tâm công nghệ-cao và kinh tế hàng đầu thế giới, những yếu tố nào đã hun đúc lên nó, làm cho nó trở thành một nơi biến tri thức thành vàng, hay là nơi “luyện giả kim”, và muốn bắt chước, thì nên làm sao.
Lịch sử chúng ta thiếu tình yêu khoa học nghiêm trọng, trong khi khoa học là nhân tố then chốt đã đổi đời phương Tây, bởi vì họ có tình yêu nồng nàn đối với khoa học. Không có khoa học, toán học, thế giới giờ sống ra sao? Với mắt thường nhìn xung quanh và thế giới, ai cũng có thể nhận thấy, rằng khoa học công nghệ (KHCN) có vai trò then chốt cho sự phồn vinh và quốc phòng. Trong khi công nghệ thế giới đang phát triển với tốc độ hàm mũ, công nghệ của chúng ta phát triển theo phép cộng, thì bao giờ chúng ta bắt kịp họ? Không có KHCN phát triển, làm sao chúng ta bứt phá tiến lên phía trước, và bảo vệ an ninh hữu hiệu? Cho nên tôi không bỏ lỡ cơ hội để truyến bá tình yêu khoa học trong thanh niên, và giúp họ hiểu những gì mới nhất đang diễn ra ở các quốc gia phát triển.
Cuốn sách “Đại học – Định chế giáo dục cao thay đổi thế giới: Từ trung cổ đến hiện đại” của ông vừa được Giải Sách Hay 2019. Trong diễn từ nhận giải, ông nói “muốn chấn hưng quốc gia, phải chấn hưng đại học”. Vì sao vậy, thưa ông?
Đại học phương Tây vốn không phải là “trường nghề” thuần túy, tuy có thể cao cấp hơn, như người tha có thể nghĩ, mà là nơi trước nhất đào tạo con người có tính nhân văn, khai phóng, có khả năng tư duy độc lập, hiểu biết rộng, có tầm nhìn xa, yêu chân lý, dám dân thân cho chân lý, hun đúc lý tưởng hay đam mê tiềm tàng trong con người, đặt con người làm trung tâm (man-centered), làm công dân có trách nhiệm đối với xã hội, để trước khi làm một chuyên gia, người trẻ trở thành một con người, một công dân có văn hóa. Đây là phần giáo dục khai phóng.
Nhưng một đại học không thể là một nơi dạy tốt lâu dài nếu nó không phải là nơi nghiên cứu tốt. Đại học nghiên cứu khoa học là mô hình mà đầu thế kỷ 20 nước Đức đi tìm chân lý do Humboldt khởi xướng. Vì thế cần một số nguyên lý, như phát triển khoa học và học thuật toàn diện, tự do học, tự do dạy và kết hợp giảng dạy và nghiên cứu, cũng như cần sự tự chủ về tổ chức và học thuật nhất định. Một hệ thống đại học không có đổi mới sáng tạo thì đất nước cũng không thể có đổi mới sáng tạo được. Một đại học không có tự chủ về tinh thần thì không tạo ra được những tinh hoa độc lập mạnh mẽ cho quốc gia.
Chúng ta hãy nghe nhà vật lý Mỹ giải Nobel, Steven Weinberg, minh họa sự hữu ích của đại học nghiên cứu như sau: Nếu không có loại hình đại học nghiên cứu Đức thế kỷ 19 mà Mỹ đã du nhập, thì người Mỹ chỉ có thể nuôi thân bằng nghề trồng đậu nành, và nghề du lịch đưa du khách Đức và Nhật Bản đi xem Grand Canyon mà thôi! Hãy lấy minh họa này làm thông điệp, trong vô số thông điệp khác tương tự, làm kim chỉ nam để phát triển đại học. Người Mỹ đã tiếp thu mô hình đại học Đức vào những thập niên cuối của thế kỷ 19 – một cách rất đam mê, để biến các colleges nhân văn của họ thành những đại học nghiên cứu lớn, tạo ra một sự phát triển khởi sắc và trở thành tinh hoa, trác việt.
Muốn làm điều đó thì đại học của chúng ta phải làm gì, thưa ông?
Cần có kế hoạch cải tổ đại học và đầu tư lớn vào một số đại học nghiên cứu trọng điểm, kết nối với hệ sinh thái đại học thế giới để trở thành những đại học tinh hoa tạo ra tri thức cần thiết cho nền kinh tế và xã hội, nhằm hiện đại hóa kinh tế, quốc phòng cũng như văn hóa. Kinh nghiệm có không thiếu để học hỏi. Cả hệ thống chính trị phải có quyết tâm và vào cuộc. Cần xây dựng tình yêu khoa học suốt đời cho các tầng lớp trí thức.
Những nhà khoa học phương Tây vì yêu khoa học nên hầu như họ không biết “nghỉ hưu” hay “gác kiếm”. Họ yêu khoa học như một tôn giáo đời thường, không xem khoa học chỉ là một phương tiện kiếm sống. Chỉ có một tình yêu khoa học mạnh mẽ gắn kết với sự phát triển thì quốc gia mới có sức bật, và mới có cơ may thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình hiện nay.
Hãy trải thảm đỏ cho mọi nhà khoa học đến tiếp sức chúng ta. Hãy hạ hàng rào hành chính cản trở cho dòng chảy tri thức được thông suốt dễ dàng, để tránh nguy cơ “tự cấm vận” chính mình ở lĩnh vực then chốt nhất là tri thức. Cái nghèo đáng sợ nhất là nghèo tri thức. Hãy xem người Nhật đã từng làm, rồi người Hàn, người Trung Quốc, cũng như các con rồng châu Á khác, như một quy luật giống nhau.
Ngoài viết sách, hiện tại ông còn làm gì khác?
Tôi còn ấp ủ nhiều dòng sách hữu ích. Thời gian chủ yếu trong ngày hiện nay của tôi là đọc sách, nghiên cứu và viết lách. Nhìn lại, nếu không có những ngày “lột xác” ở Berlin thì chưa chắc đã có EINSTEIN, ĐẠI HỌC, và những quyển sách khác hôm nay. Nếu ai có hỏi tại sao tôi có nhiều năng lượng như thế, thì xin thưa, đó là theo “quy luật của Einstein”: ở đâu có những ý tưởng tích cực, sáng tạo, ở đó có năng lượng mới tuôn chảy, đừng lo.
