TỪ ADAM SMITH ĐẾN LUDWIG ERHARD
Cuộc trò chuyện với Adam Smith Phần III
Nguyễn Xuân Xanh
Tượng Adam Smith được xây dựng vào năm 1867–1870 tại trụ sở cũ của Đại học London, số 6 Burlington Gardens (Wiki)
Lời nói đầu
Tiêu đề Từ Adam Smith đến Ludwig Erhard nghe có vẻ “giật tít” một chút, nhưng tôi muốn có một bài khảo luận với nội dung phù hợp như thế. Ludwig Erhard được xem người thực hiện thể chế Kinh tế thị trường xã hội (Soziale Marktwirtschaft) một mô hình kinh tế đặc biệt ở những phần đất sau này gọi là Cộng hòa Liên Bang Đức thời hậu chiến. Ông là Bộ trưởng Kinh tế từ năm 1949 đến năm 1963, một giai đoạn mà sự tăng trưởng kinh tế hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ như một hiện tượng thần kỳ, mặc dù ông không nhận cách gọi như thế. Ông cũng giữ chức Phó Thủ tướng từ năm 1957 đến năm 1963 trước khi chính thức trở thành Thủ tướng Đức. Park Chung Hee từng nghiên cứu mô hình kinh tế Đức và đã đến Đức hai lần trong những năm 1960 để ký kết các thỏa thuận hợp tác kinh tế và quân sự với Đức.
Nhưng trước nhất, cuộc trò chuyện với Adam Smith xin tiếp tục bắt đầu bằng một số chủ đề khác, như quan điểm của Adam Smith đối với giới công nhân lao động, và giới doanh nghiệp tư nhân.
Tôi viết bài này trong thời gian eo hẹp, xin bạn độc cảm thông nếu thấy nó còn luộm thuộm.
Nguyễn Xuân Xanh
– Nguyên: Chào ông Smith! Xin ông cho phép tôi đề cập đến một vấn đề khác: người lao động. Ông là người có độ quan tâm rất lớn, nếu không muốn nói lớn nhất trước mọi nhà kinh tế học sau ông, đến quyền lợi của giới công nhân phải không ạ? Bởi giới này góp phần quan trọng làm ra của cải cho xã hội. Không có những công nhân cần cù và có skill, óc sáng tạo, không thể có doanh nhân thành công. Giới công nhân hình thành trong một xã hội thương mại và phân công lao động. Trước đó, trong ‘xã hội man di’, ‘mọi cá nhân có khả năng làm việc ít nhiều đều được sử dụng vào lao động hữu ích’ và nỗ lực cung cấp cho gia đình mình cũng như cho những người không thể tự làm việc. Trong những xã hội như vậy, ‘không có địa chủ, không có người cho vay nặng lãi, không có người thu thuế’. Mọi người đều giữ lại sản phẩm lao động của mình.
Nhưng trong xã hội văn minh thì ngược lại, theo ông, người lao động làm thuê nghèo, ‘người hỗ trợ toàn bộ cơ cấu xã hội và cung cấp phương tiện mang lại sự tiện lợi và thoải mái cho tất cả những người còn lại’, được khen thưởng bằng ‘một phần rất nhỏ’ từ lao động sản xuất của chính mình, và bị ‘chôn vùi trong sự quên lãng’, ‘bị đẩy xuống những vùng thấp nhất của trái đất’. Anh ta và người thợ thủ công không chỉ gánh trên lưng những địa chủ và những người có tiền, mà còn cả một khối lượng lớn những ‘người lao động không sản suất’ (unproductive labourers), những người được ông liệt kê trong Sự phồn vinh của các quốc gia: những người hầu hạ đẳng, những người của nhà thờ, luật sư, bác sĩ, những nhà văn đủ loại; những nghệ sĩ sân khấu, hề, nhạc sĩ, ca sĩ opera, vũ công opera, v.v.; chưa kể đến gánh nặng lớn nhất của một đội quân thường trực và ‘vua chúa cùng tất cả các công chức của ngành tư pháp và chiến tranh’. (WN, Book 1, 152)
Ông cho rằng sự giàu có thực sự tăng lên nhờ ‘phần thưởng hào phóng của lao động’, vì đó là động cơ khuyến khích sự cần cù. Ở những nơi có lương cao, công nhân ‘năng động, siêng năng và nhanh nhẹn’ hơn – ở Anh hơn ở Scotland, ở các khu vực thành thị hơn là ở nông thôn. Vì công nhân chiếm phần lớn dân số nên bất cứ điều gì cải thiện được cuộc sống của họ đều sẽ tạo nên một xã hội hưng thịnh.
– Smith: Chào ông Nguyên! Chúng ta phải công bằng với giới lao động chứ, vì họ phải gánh một gánh nặng cho xã hội, đúng không ông? Ông Nguyên thấy:
Những người hầu, người lao động và công nhân thuộc nhiều loại khác nhau chiếm phần lớn hơn nhiều trong mọi xã hội chính trị lớn. Nhưng (cho nên) những gì cải thiện hoàn cảnh của phần lớn (xã hội) không bao giờ có thể được coi là sự bất tiện cho toàn thể. Không một xã hội nào chắc chắn có thể hưng thịnh và hạnh phúc, trong đó phần lớn thành viên đều nghèo khó và khốn khổ. Ngoài ra, đó chỉ là sự công bằng khi những người lo ăn, mặc và chỗ ở cho toàn bộ nhân dân phải được hưởng một phần sản phẩm lao động của mình để được ăn, mặc và ở với mức vừa phải. (WN, Book 1, 115)
– Nguyên: Quan điểm nhân bản của ông còn đi xa hơn ạ. Ông đã tỏ ra quan tâm về những thiệt hại nặng nề về tinh thần, trí óc, thể xác cho người lao động chuyên môn vì những hoạt động đơn điệu lặp đi lặp lại hàng thập kỷ, như ông nói:
Một người dành cả cuộc đời để thực hiện một vài thao tác đơn giản mà hiệu quả của chúng có lẽ luôn giống nhau hoặc rất gần giống nhau, sẽ không có cơ hội vận dụng sự hiểu biết của mình hoặc vận dụng óc phát minh của mình để tìm ra các phương pháp giải quyết những khó khăn chưa bao giờ xảy ra.
– Smith: Vâng, những tác động tiêu cực của phân công lao động lên con người hầu như là to lớn nếu không muốn nói toàn diện:
Tâm trí lờ đờ khiến anh ta không những không có khả năng thích thú hoặc tham gia vào bất kỳ cuộc trò chuyện hợp lý nào, hay thưởng thức nó, mà cũng không cảm nhận được những cảm xúc hào phóng, cao thượng hoặc dịu dàng nào để từ đó có được một phán đoán công bằng nào liên quan đến nhiều nghĩa vụ thường nhật của cuộc sống riêng tư. Anh ta hoàn toàn không có khả năng phán xét về những lợi ích to lớn và lâu dài của đất nước mình, và trừ khi có những nỗi đau đớn đặc biệt khiến anh ta làm khác đi, anh ta cũng sẽ không có khả năng bảo vệ đất nước của mình trong chiến tranh. Tính đơn điệu của cuộc sống đều đặn của anh ta tự nhiên làm xói mòn lòng dũng cảm trong tâm trí anh ta, và khiến anh ta ghê tởm cuộc sống bất thường, bấp bênh và phiêu lưu của một người lính. Nó làm suy giảm ngay cả hoạt động của cơ thể anh ta, và khiến anh ta không thể phát huy sức mạnh của mình một cách mạnh mẽ và kiên trì trong bất kỳ công việc nào khác với công việc mà anh ta đã được nuôi dưỡng. Theo cách này, sự khéo léo của anh ta trong nghề nghiệp cụ thể của mình dường như phải bị trả giá bằng những đức tính trí tuệ, xã hội và võ thuật của anh ta. Nhưng trong mọi xã hội tiến bộ và văn minh, đây là tình trạng mà người lao động nghèo, tức là đại bộ phận nhân dân, nhất thiết phải gặp, trừ khi chính phủ chịu nỗ lực ngăn chặn điều đó. (WN, Book 5, 1040-41)
– Nguyên: Vâng, đúng như thế. Con người sẽ bị vong thân, như Marx nói. Chiếc xe vinh quang nào của lịch sử cũng phải kéo qua bao nhiêu thân xác của con người, như Engels diễn tả. Lịch sử là như thế. Giới công nhân rất “thất thế”, hoặc chấp nhận đồng lương không thỏa đáng, hoặc chết đói. Các nhà tranh luận đặt ra câu hỏi: liệu những người lao động được trả lương có tốt hơn những nô lệ đồn điền hay không. Và liệu nền dân chủ có thể tồn tại trong một thế giới ngày càng hoạt động bằng lao động làm công hay không?
Nhưng tình hình không dừng lại ở chỗ đó. Mỗi người công nhân, như ông nói, đều có mong muốn cãi thiện cuộc sống và địa vị mình trong xã hội, nên luôn luôn ra sức phấn đấu vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo. Vẫn có không gian cho người thợ cải thiện năng suất, sáng tạo, và thăng tiến. Phát biểu vào năm 1856, Abraham Lincoln đã nêu quan điểm một cách súc tích: “Người đã làm việc cho người khác vào năm ngoái, năm nay làm việc cho chính mình, và năm sau anh ta sẽ thuê người khác làm việc cho mình”. Cuộc nội chiến Mỹ không chỉ là cuộc chiến giải phóng nô lệ, hay cuộc đọ sức giữa hai hệ thống kinh tế. Những người Cộng hòa (Đảng của Lincoln) xem độc lập kinh tế của cá nhân là điều kiện tiên quyết cho tự do chính trị. Phải tạo điều kiện để nhiều người tiến lên làm chủ. Lincoln cho rằng, nếu chính phủ ủng hộ sự độc lập cá nhân và giáo dục, và khởi động một cơ sở hạ tầng thương mại, thì một cộng đồng dân cư tự do, tự cải thiện, sẽ tận dụng tối đa cơ hội. Tại cuộc triển lãm nông nghiệp ở Wisconsin, Lincoln tấn công “Thuyết Mudsill (ngưỡng bùn)” quan niệm rằng phải có, và luôn luôn có một tầng lớp thấp hơn, ở dưới để các tầng lớp thượng lưu và phần còn lại của xã hội dựa lên, đi ngược lại chủ trương một xã hội linh hoạt cao độ của lý tưởng cộng hòa:
Người mới vào nghề thận trọng, không một xu dính túi trên thế gian, lao động để kiếm tiền công một thời gian, tiết kiệm một khoản thặng dư để mua công cụ hoặc đất đai cho bản thân; sau đó lại tự mình lao động thêm một thời gian nữa, và cuối cùng thuê một người mới vào nghề khác để giúp mình …. Có bằng chứng cho nhận xét này. Nhiều người độc lập, trong buổi họp này, chắc hẳn là vài năm trước đã từng là người lao động được thuê. Nhưng trường hợp của họ gần như, nếu không muốn nói là hoàn toàn, là quy luật chung …. (Morris, The Tycoons, 9)
Lincoln ý thức mình đang làm một cuộc thay đổi cực kỳ khó khăn, chống lại một định kiến đã ăn sâu vào xã hội. Nhưng ông muốn thực hiện một lý tưởng được xem như “ngoại lệ” của nước Mỹ, mà ở đó dân chúng rộng rãi được hưởng nền tảng kinh tế và xã hội của tự do chính trị như các người cha lập quốc quan niệm.
Nhìn toàn bộ lịch sử, thợ thủ công đã có những bước tiến kỳ vĩ, như Guru quản lý kinh tế Peter Drucker nhận định. Người thợ thủ công thời Cổ đại từng là nô lệ. Người thợ thủ công của ‘thời đại máy móc’ đầu tiên, người thợ thủ công của thời Trung cổ ở Châu Âu, đã trở thành giai cấp thống trị đô thị, những ‘thị dân’ (burgher), những người sau đó đã tạo ra những thành phố độc đáo của Châu Âu, và văn hóa Gothic lẫn Phục hưng. (Drucker, Post-capitalist society, 23)
– Smith: Vâng, nhìn toàn bộ, như ông Nguyên nói, nhân loại đạt được nhiều tiến bộ đáng kinh ngạc nhưng phải trả giá vô cùng đắt cho bao thế hệ “lót đưởng”. Sự tiến hóa con người là rất đắt.
– Nguyên: Luận đề nổi tiếng, và cũng là điểm xuất phát của ông, là, nền kinh tế thị trường cần giống như một hệ thống tự do tự nhiên (natural free system), nghĩa là độ tự do của con người cao nhất có thể, sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế cao như có thể, nhà nước thu nhỏ như có thể, không cản trở, không có các nhóm lợi ích móc ngoặc với chính trị gia để tạo ra ưu đãi, độc quyền, hay nâng giá. Trong những điều kiện như thế, bàn tay vô hình của ông sẽ mang lại phúc lợi cho xã hội ở mức cao, và hiệu quả nhất.
– Smith: Bàn tay vô hình càng phát huy tác dụng, càng đem lại nhiều lợi lộc cho công chúng “khi chế độ cạnh tranh càng tự do và càng toàn diện.” Vì thế, tôi chống lại mọi sự bóp méo, “khuynh đảo” thị trường tự do tự nhiên. Tôi lên án các luật do “thương nhân và nhà sản xuất của chúng ta đã tống tiền cơ quan lập pháp để nặn ra, với mục đích hỗ trợ cho các công ty độc quyền ngu xuẩn và áp bức của riêng họ.” Theo tôi, liên minh của các nhà lãnh đạo chính trị và các doanh nhân, các nhóm lợi ích, là một trong những trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế. Tôi cũng chống lại các loại chủ nghĩa cực đoan chính trị, cảnh báo rằng “con người của hệ thống” sẽ bỏ qua thực tế của cuộc sống cá nhân, tưởng tượng rằng anh ta có thể thao túng họ như “những quân cờ trên bàn cờ.” Mọi người đều có ý tưởng riêng, óc sáng tạo riêng của họ, chứ không phải từ sự bị thao túng. Do đó chủ nghĩa cực đoan chính trị không giúp được ai, và “bạo lực của đảng phái” sẽ chẳng đạt được gì.
Ludwig Erhard (4 Tháng 2, 1897 – 5 Tháng 5, 1977)
– Nguyên: Thưa ông, Ludwig Erhard, thuyền trưởng của thể chế Kinh tế thị trường xã hội (Soziale Marktwirtschaft) Đức được thiết lập vài năm sau Thế chiến II trên phần đất Tây Đức có lẽ vì thế là người kiên quyết nhất chống lại mọi âm mưu móc ngoặc định giá giữa các tập đoàn sản xuất trên lưng người tiêu dùng. Ông muốn đảm bảo độ tự do cạnh tranh lớn nhất có lợi cho người dân. Vâng, độc quyền cũng là di sản của các chế độ cũ để lại và dẫn đến chiến tranh mà các lãnh đạo Đức thời hậu chiến muốn đoạn tuyệt. Phương châm tóm tắt của Ludwig Erhard là: Càng ít chính phủ càng tốt, càng nhiều phúc lợi xã hội càng tốt. Ông đã tóm tắt những suy nghĩ của mình trong cuốn sách “Phồn vinh cho tất cả mọi người” (Wohlstand für Alle), giống như cái tên Phồn vinh của các quốc gia trong tác phẩm của ông. Nền kinh tế thị trường đại diện cho các quyền tự do kinh tế cơ bản: tự do tiêu dùng, sản xuất, thương mại, kinh doanh và cạnh tranh, tự do lựa chọn nghề nghiệp và nơi làm việc, và tự do sở hữu và sử dụng tài sản. Tổ chức đời sống kinh tế theo cơ chế thị trường không chỉ đảm bảo cung cấp hàng hóa tốt nhất cho xã hội mà còn đảm bảo các quyền cơ bản như quyền tự do phát triển nhân cách và quyền tự quyết. “Chính sách kinh tế của chúng ta phục vụ người tiêu dùng; chỉ có người tiêu dùng mới là thước đo và thẩm phán của mọi hoạt động kinh tế” như Ludwig Erhard tuyên bố. Đó chẳng phải một sự diễn giải tư tưởng của ông về hệ kinh tế thị trường tự do tự nhiên cộng với những biện pháp quyết liệt chống lại sự hình thành các cartel và tính chất xã hội vốn đã bắt đầu có từ thời Bismarck hay sao?
Hơn nữa chính sách của Erhard muốn ngăn chặn nạn độc quyền mà nhà kinh tế học người Mỹ gốc Áo nguyên giáo sư Harvard Joseph Schumpeter cho rằng sẽ là nguồn cội của sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, và cả nền dân chủ phương Tây nữa. Mọi sự độc quyền dưới mọi hình thức, tôi nghĩ, là một sự kềm hãm và sẽ bị sụp đổ. Lịch sử không thiếu thí dụ. Sau khi Marx mất, Engels đã từng nói: Theo quan điểm lịch sử duy vật chủ nghĩa, yếu tố quyết định cuối cùng trong lịch sử là sản xuất và tái sản xuất cuộc sống thực. Marx và tôi không nói gì khác hơn. (Friedrich Engels trong thư cho Joseph Bloch năm 1890, MEW, Bd 37, 463) Do đó, để có sản xuất tối ưu, lực lượng sản xuất cần được phát triển tối đa mà không bị trói buộc bởi bất cứ lý do phi kinh tế nào, và thêm vào đó là yếu tố khoa học, công nghệ hiện đại không ngừng được cải tiến, yếu tố ngày nay trong thời đại tăng trưởng theo hàm mũ (exponential) là sống còn.
Gần đây, Tổng Bí thư của Việt Nam có bài phát biểu quan trọng, “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, muốn “phát triển kinh tế tư nhân trên nền tảng bền vững chắc, có đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội, bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và đảm bảo thi hợp đồng của doanh nghiệp tư nhân”. Nghe rất gần với quan điểm ông, đúng không ạ?
– Smith: Tôi rất hoan nghênh tuyên bố đó của Ngài Tổng Bí thư Việt Nam. Đó là nhận thức sáng suốt. Ở tất cả các quốc gia đạt độ phồn vinh cao, kinh tế tư nhân đều là yếu tố then chốt cả. Nhân tài đều đến từ cái bễ nhân dân rộng lớn chứ không từ một số người “được chỉ định”. Họ phải có cùng cơ hội bình đẳng với nhau. Lịch sử nhân loại là minh chứng sống động cho điều đó, đặc biệt từ sau Cách mạng Pháp. Kinh doanh tự do trong khuôn khổ luật pháp chặt chẽ là điều kiện quyết liệt để nhanh chóng đạt tới phồn vinh. Nó như một “định luật thép” không quốc gia nào có thể bỏ qua được.
– Nguyên: Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân thật sự phát huy sức mạnh của nó, tôi nghĩ cần nhiều thời gian và biện pháp. Những tuyên bố của ông Tổng Bí thư mới chỉ là điều kiện cần, cái khung, nhưng chưa đủ để trở thành hiện thực. Bởi vì, sản xuất cái gì, bằng công nghệ gì, cho thị trường nào, vốn ở đâu, đó là những câu hỏi cốt lõi. Tôi nghĩ, xã hội Việt Nam bây giờ mới thật sự bước vào giai đoạn xã hội thương mại như ông nói 250 năm trước, nhưng khâu sản xuất hãy còn khá yếu, khoa học công nghệ chưa phải là yếu tố then chốt. Việt Nam chưa có cơ sở hạ tầng tri thức để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong thời điểm hiện tại như Hàn Quốc với sự thành lập Viện KIST rồi KAIST, Đài Loan với ITRI ở Tân Trúc. Việt Nam chưa tạo ra được những cụm (cluster) công nghiệp có đại học nghiên cứu hỗ trợ như ở Thung lũng Silicon, hoặc Tân Trúc.
Sau đổi mới ở Trung Quốc, Liên minh mới giữa khoa học và kinh tế ra đời. Tại hội chợ quốc gia tháng Ba năm 1985 nhằm mục đích phát triển KHCN vào khu vực sản xuất, hơn 3.200 đề án chuyển giao công nghệ được giao dịch đạt tới trị giá 1.120 triệu nhân dân tệ. Tâm lý sản xuất theo kiểu bao cấp thời Mao dựa trên sự thụ động chính trị là chính, cũng như ảnh hưởng của hệ thống Liên xô dần dần được khắc phục. Yếu tố thị trường, đổi mới công nghệ, kỹ năng quản lý và thành quả kinh tế đã có sức sống nhiều hơn. Việt Nam cần những sự kiện tương tự như vậy mới thúc đẩy kinh tế tư nhân một cách hữu hiệu. (Xem thêm ở đây)
– Smith: Vâng, Việt Nam đang cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng trí thức, đúng như thế, đang thiếu lắm, và các trường đào tạo doanh nhân sáng tạo, các định chế nghiên cứu. Cần tạo ra mindset công nghiệp hóa trong dân chúng và kết nối khoa học, công nghệ với kinh doanh. Các quốc gia đi trước đều như thế cả.
– Nguyên: Sự khác biệt căn bản giữa Liên bang Nga thời Liên Xô và Trung Quốc thời cải cách căn bản là gì nếu không phải là thị trường tự do tự nhiên của ông? Ở Nga thị trường đó chết, vì chỉ có nhà nước là có vai trò trong kinh tế, dân chúng không được phép làm ăn, sáng kiến bị kềm hãm, chỉ còn lại sự phân phối lương thực đơn thuần của nhà nước, bàn tay vô hình bị bàn tay hữu hình của nhà nước thay thế. Trong khi đó, Trung Quốc thời đổi mới thì ngược lại, họ cho phép kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, kinh tế thị trường phát triển sôi động, thị trường sau thời Mao nay sống lại. Tình hình cực đoan ở Nga đã dẫn đến thảm họa, như Boris Yeltsin từng than thở, “đất nước chúng ta đã không may mắn” khi phải chịu thực hành một thí nghiệm “chỉ đơn giản đẩy chúng ta ra khỏi con đường mà các quốc gia văn minh trên thế giới đã đi”, điều được phản ánh, “khi 40% người dân đang sống dưới mức nghèo khổ và hơn nữa, họ phải cảm thấy xấu hổ khi nhận được nông sản khi trình thẻ khẩu phần”. (Boris Yeltsin, xem Francis Fukuyama, The End of History and The Last Man.)
– Smith: Cảm ơn ông Nguyên! Chúng ta tạm biệt nhé.
– Nguyên: Cảm ơn ông. Xin hẹn gặp lại lần tới!
Xin xem Cuộc trò chuyện Phần II: Cuộc trò chuyện với Adam Smith Phần II
và Kỷ yếu Adam Smith 300 năm (1723-2023) ra mắt
Ghi chú: WN là viết tắt của Wealth of Nations, Phồn vinh của các quốc gia; TMS là Theory of Moral Sentiments, Lý thuyết các tình cảm đạo đức. Đây là cách viết tắt được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu quốc tế. Hai quyển này và những quyển khác của Adam Smith trong Glasgow Edition thường được lấy làm sách tiêu chuẩn để trích dẫn.
Nguyễn Xuân Xanh