Bài 1: Lịch sử transistor và chip bán dẫn

by , under Uncategorized

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN

TRANSISTOR VÀ CHIP BÁN DẪN

Nguyễn Trung Dân

Sự ra đời của phát minh quan trọng nhất

cho cuộc cách mạng công nghệ tin học

 

Lới nói đầu của tác giả

Vì sao Bill Gates muốn du hành ngược thời gian về

Bell Labs tháng 12.1947?

Tỉ phú, nhà sáng lập công ty Microsoft Bill Gates, cho rằng phát minh ra transistor là phát minh quan trọng nhất cho cuộc cách mạng công nghệ tin học và vì thế có ảnh hưởng hết sức lớn đến toàn bộ sự phát triển của nhân loại từ nửa cuối thế kỷ 20 cho đến nay…

Bill Gates, nhà sáng lập công ty Microsoft, một trong những người có công lớn hàng đầu trong cuộc cách mạng tin học của thế kỷ 20, đã từng nói nếu có một cỗ máy thời gian quay trở về quá khứ, ông sẽ xin trở về thăm Bell Labs tháng 12.1947. Đó cũng chính là thời điểm các nhà nghiên cứu của Bell Labs phát minh ra bộ khuếch đại điện tử bằng chất bán dẫn đầu tiên được đặt tên là transistor (bóng bán dẫn).

Phải hơn mười năm sau, các vi mạch tích hợp điện tử bán dẫn hay còn được gọi đơn giản là chip bán dẫn bao gồm nhiều vi mạch điện tử với các transistor là thành phần quan trọng nhất được phát triển, mở ra thời kỳ phát triển huy hoàng của máy tính điện tử, đặc biệt là máy tính cá nhân.

Theo Bill Gates, phát minh ra transistor là phát minh quan trọng nhất cho cuộc cách mạng công nghệ tin học và vì thế có ảnh hưởng hết sức lớn đến toàn bộ sự phát triển của nhân loại từ nửa cuối thế kỷ 20 cho đến nay. Ông nói “nếu không có transistor, tôi tin chắc chúng ta sẽ không thể nào chứng kiến được sự phát triển của máy tính và công nghệ tin học như ngày nay”.

Trong thời gian gần đây, hiện tượng khủng hoảng thiếu các chip bán dẫn trở nên vấn đề thời sự quốc tế nóng bỏng, góp một phần quan trọng làm khan hiếm và đẩy giá các mặt hàng điện tử dân dụng và các loại máy móc công cụ khác như xe ô tô chẳng hạn. Để có thể hiểu hết tầm quan trọng của các linh kiện  tuy nhỏ xíu này nhưng là linh hồn của tất cả các thiết bị điện tử, mời bạn đọc tìm hiểu lịch sử và quá trình phát triển của khoa học và công nghệ dẫn tới phát minh quan trọng này.

Trong loạt bài này, tác giả Nguyễn Trung Dân – một chuyên gia có trên 25 năm nghiên cứu về vật lý lý thuyết và ứng dụng các chất bán dẫn, trong đó có thời gian nghiên cứu ở Italy, Đức, Nhật và Mỹ (*), sẽ lần lượt đi vào những câu chuyện cụ thể về quá trình phát minh sáng chế transistor và chip bán dẫn; Câu chuyện một công ty sụp đổ và sự ra đời của thung lũng điện tử (Silicon Valley); Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan do bắt kịp chuyến tàu công nghệ bán dẫn khởi xướng từ Mỹ; Vì sao các cường quốc khoa học ở châu Âu bỏ lỡ chuyến tàu công nghệ bán dẫn; Câu chuyện thất bại của công ty chip bán dẫn nhiều tỷ đô của Trung Quốc và bài học…

Được xem là ‘xương sống’ của kỷ nguyên công nghệ, vì vậy việc thiếu hụt chip bán dẫn trong thời gian qua khiến cả thế giới lao đao. Ảnh: Marketwatch photo Illustration/Istockphoto

 

⭐⭐⭐

Hãy quay trở lại với lịch sử phát triển của các lĩnh vực liên quan, bắt đầu từ hệ thống liên lạc viễn thông, để tìm hiểu những tiền đề của phát minh có tính đột phá này đối với  nền khoa học và công nghệ của nhân loại.

 

Khởi nguyên của các phương tiện liên lạc

Nhu cầu thông tin liên lạc xuyên khoảng cách đã có từ ngàn xưa. Từ thời cổ đại, sử sách đã ghi lại người Trung Hoa, Ai Cập và Hy Lạp đã sớm biết sử dụng kèn, tù và, khói lửa làm ám hiệu, thông tin liên lạc trong các cuộc giao chiến. Tuy vậy, tầm quan trọng của liên lạc viễn thông trong lĩnh vực thương mại thì mãi sau này mới được biết tới.

Vào những năm 1600, Galileo Galilei (1564-1642), người được coi là ông tổ của nền vật lý hiện đại, đã sử dụng kính viễn vọng làm phương tiện liên lạc trong mục đính thương mại một cách rất hiệu quả. Các kính viễn vọng này vốn do ông chế tạo chủ yếu để quan sát các thiên thể cách xa trái đất hàng trăm ngàn cây số.

Lúc bấy giờ, các đoàn tàu đánh cá xa bờ ở Italy phải đi cả tháng trời và chỉ trở về những ngày đã được quy định cũng là những phiên chợ cá với hàng ngàn thương nhân lái cá từ khắp các vùng lân cận đổ về mua cá, kéo theo muôn vàn các dich vụ khác nhau.

Galileo hướng dẫn sử dụng kính viễn vọng. Nguồn: Wikipedia

Điều đáng nói là các chuyến đi đánh cá không phải lúc nào cũng được mùa, có lúc hoàn toàn thất bại, nhưng cũng có lúc trúng lớn. Khi vụ cá bị thất bại, hàng ngàn thương nhân đến chợ cá phải trở về tay trắng, tốn kém vô cùng. Ngược lại, khi trúng vụ cá lớn nhưng trên bờ không biết nên không chuẩn bị thu mua làm người đánh cá cũng bị thiệt hại ghê gớm.

Galileo đã nghĩ ra một phương cách mới. Bằng cách dùng các kính viễn vọng ông có thể nhìn thấy các ám hiệu được quy ước trước với các tàu cá cách bờ hàng trăm cây số, và vì thế ông có thể biết chắc kết quả của vụ cá cho phiên chợ cá sắp tới. Cũng nhờ biết trước như vậy mà giảm được rất nhiều khó khăn cả cho người đánh cá lẫn các thương gia.

Phương pháp liên lạc này của Galileo lúc bấy giờ không chỉ đem lại hiệu quả rất lớn về thương mại mà cả về các mặt xã hội. Đây có thể đươc coi là một trường hợp lịch sử: lần đầu tiên, loài người biết sử dụng các phương tiện liên lạc viễn thông hiện đại vào mục đính thương mại.

Samuel Morse (1791-1872). Nguồn: Wikipedia

Gần 250 năm sau, nhân loại mới chứng kiến được một sự kiện làm thay đổi căn bản hệ thống liên lạc qua khoảng cách xa (viễn thông). Vào năm 1835 Samuel Morse (1791-1872), giáo sư hội họa và điêu khắc của ĐH New York City đã phát minh ra hệ thống các mã ký hiệu gồm các dấu chấm và gạch dùng để truyền đi thay cho các ký tự bảng chữ cái. Hệ thống mã ký hiệu này còn được gọi là Morse Code (người Việt trước đây hay gọi là đánh điện hay đánh Moóc vì đọc chệch ra từ tiếng Pháp).

Sau đó Morse đã hợp tác với kỹ sư Alfred Vail sáng chế ra máy truyền tín hiệu bằng điện, mở ra thời đại mới cho liên lạc viễn thông bằng tín hiệu điện tử mà sau này còn được gọi là điện tín (telegraph).

Tuy vậy phải đợi đến năm 1874 khi Thomas Edison (1847-1931), người được coi là thần đồng sáng chế vĩ đại nhất của nước Mỹ với 1.093 bằng phát minh, đã sáng chế ra hệ thống gửi và nhận nhiều bản điện tín cùng lúc trên một dây truyền thì telegraph mới trở thành một phương tiện liên lạc được sử dụng phổ biến không chỉ cho các chính phủ dùng trong các lĩnh vực quốc phòng, ngoại giao, thương mại mà còn đóng vai trò rất lớn trong phục vụ nhu cầu liên lạc của người dân ở Mỹ và sau đó là ở các nước châu Âu thời bấy giờ.

Thomas Edison bên cạnh sáng chế telegraph của ông. Tháng 4 năm 1878. Nguồn: Wikipedia

Liên lạc bằng điện tín dùng các mã ký hiệu của Morse ‘đánh Mooc’ và gửi qua hệ thống telegraph điện tử được sử dụng hết sức rộng rãi trên toàn thế giới mãi cho đến những năm 1990. Điều đáng nói là bảng ký hiệu của Morse khi được chuyển sang dùng cho các nước không nói tiếng Anh gặp rất nhiều phiền toái. Người Việt chúng ta vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện tiếu lâm từ việc đọc các bản điện tín không có dấu.

Do phải thông qua các nhân viên “đánh Mooc”, việc gửi và nhận các bản điện tín phải được thực hiện tại các trung tâm bưu điện (thời Pháp thuộc, người Việt còn gọi là ‘nhà dây thép’) vì vậy phương tiện này không thể nào phổ cập đến mọi người, mọi lúc và mọi nơi. Hơn thế nữa, nhu cầu nghe nói trực tiếp giữa những người liên lạc không thể nào thực hiện được qua phương tiện này.

Lúc bấy giờ ít ai có thể ngờ rằng nhu cầu tưởng rất giản dị này lại chính là động lực cho sự phát triển của một công nghệ mới: điện thoại (telephone), và cũng ít ai thấy trước được công nghệ này chính là khởi nguồn cho một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới của nhân loại được gọi là cuộc cách mạng tin học bắt đầu từ nửa cuối của thế kỷ 20.

“Nhà dây thép” – trụ sở Bưu điện Sài Gòn năm 1895, nay là Bưu điện TP.HCM. Ảnh: Tư liệu từ trang web của Pháp.

 

 Phát minh điện thoại và kỷ nguyên mới cho liên lạc viễn thông

Trong bối cảnh khi lĩnh vực điện tín (telegraph) đang phát triển rất mạnh ở Mỹ và trên thực tế đã trở thành “hệ thống thần kinh của nền thương mại ở Mỹ” thì vào tháng 3.1876 bằng phát minh sáng chế điện thoại đầu tiên của Mỹ được cấp cho Alexander Graham Bell (1847-1922). Phát minh điện thoại của Bell không chỉ là một cột mốc lịch sử trong lĩnh vực truyền thông mà còn là một câu chuyện đầy tính nhân văn.

Sáng chế này của Bell xuất phát từ những ấp ủ của một cậu bé khi mới 12 tuổi đã phải tìm cách giúp mẹ của mình bị điếc có thể hiểu được người khác khi nói chuyện. Từ năm 12 tuổi, Bell đã có phát minh chế tạo một thiết bị đơn giản làm trắng các hạt lúa mỳ được sử dụng rộng rãi trong các máy xay thời bấy giờ.

Được sự khuyến khích của bố, Bell và anh trai đã chế ra một bộ phận cơ học làm theo mẫu của một sọ người có thể phát âm ra các tiếng nói đơn giản như “Mama”. Cũng từ đó ông đã theo đuổi các nghiên cứu nhằm giúp cho người bị điếc, và sau này trở thành giáo sư dạy cho người điếc của Đại học Boston (Mỹ). Ông còn mở trường tư dạy cho người điếc, và vợ ông chính là một trong những học trò của trường này.

Những nghiên cứu của ông về hệ thống phát âm có sự thúc đẩy và ảnh hưởng to lớn do việc cả mẹ và vợ ông đều bị điếc. Các nghiên cứu phát âm này về sau đã đóng góp quan trọng cho phát minh ra điện thoại của ông.

Ảnh giới thiệu về hệ thống điện thoại đầu tiên của Bell. Ảnh tư liệu

Quá trình nghiên cứu và sáng chế ra hệ thống điện thoại đầu tiên của Bell thực ra hết sức gian nan vì ông không có đủ điều kiện cả về thời gian lẫn tài chính. Phát minh của Bell thực chất là tìm cách biến đổi tín hiệu âm thanh sang tín hiệu điện và sau đó truyền tín hiệu điện trên các dây dẫn kim loại trên những khoảng cách xa.

Tại đầu nhận, tín hiệu điện lại được biến đổi sang tín hiệu âm thanh và vì vậy cuộc gọi điện được thực hiện. Theo như ông kể lại thì Bell chính thức bắt tay vào sáng chế hệ thống liên lạc bằng điện thoại khi nghe tin công ty điện tín lớn nhất nước Mỹ lúc bấy giờ là Western Union Telegraph mua các sáng chế về kỹ thuận điện tín với giá cao ngất ngưởng. Động lực thúc đẩy ông phát minh nghe thật đơn giản: kiếm nhiều tiền từ các ý tưởng của mình.

Bản vẽ bằng sáng chế điện thoại của Graham Bell ngày 7.3.1876. Ảnh tư liệu

Thoạt tiên, Bell định bán ngay phát minh này cho công ty điện tín lớn nhất lúc bấy giờ là Western Union Telegraph với giá 100 ngàn USD (tương đương khoảng 2,5 triệu USD ngày nay). Trước đó, Western Union đã mua lại bản quyền phát minh sáng chế Telegraph của Thomas Edison với giá 10 ngàn USD (tương đương 250 ngàn USD ngày nay). Ông William Orton, chủ tịch của Western Union cười khẩy khi được báo cáo lại rằng Bell muốn bán phát minh cho công ty.

Ông Orton cho rằng hệ thống của Bell chỉ là một món đồ chơi không hơn không kém. Hơn nữa, lúc bấy giờ Bell là một kẻ vô danh tiểu tốt so với thần đồng phát minh lừng danh của nước Mỹ là Thomas Edison, ai lại có thể mua sáng chế của Bell với giá gấp 10 lần sáng chế của Edison.

Chỉ hai năm sau, chính ông chủ tịch của Western Union đã thú nhận nếu biết được tầm quan trọng của phát minh đó thì ông sẵn sàng bỏ ra 25 triệu USD để mua. Nhưng đã quá muộn. Bell và một số nhà đầu tư đã sáng lập ra công ty điện thoại đầu tiên của thế giới. Tháng 7.1877, công ty Bell Telephone Company tiền thân của công ty American Telephone and Telegraph (AT&T) chính thức được ra đời.

Chỉ vài ngày sau khi công ty được thành lập, đám cưới của Bell với cô học trò trường dành cho người bị điếc do ông thành lập đã được tổ chức. Quà tặng của chú rể cho cô dâu là 1.487 trên tổng số 1.497 cổ phiếu công ty mới thành lập của Bell (nghĩa là ông chỉ giữ lại cho mình vỏn vẹn 10 cổ phiếu).

Đến năm 1886 hơn 150 ngàn người Mỹ đã sở hữu điện thoại gia đình (không kể hệ thống điện thoại công cộng và các doanh nghiệp tư nhân cũng như của hệ thống chính phủ). Bell nhanh chóng trở thành triệu phú. Những ai ở Mỹ giờ đây không thể tin được rằng một đại công ty công nghệ thống trị gần như tuyệt đối ngành liên lạc viễn thông điện tín (telegraph) của nước Mỹ vào những năm 1870, Western Union Telegraph giờ đây chỉ còn là một công ty chuyển tiền (nay là Western Union) thường chiếm một vị trí khiêm tốn trong các các siêu thị nhỏ ở Mỹ. Sự sụp đổ của một đại công ty công nghệ chỉ vì một quyết định sai lầm nói trên.

 

“Ngôi nhà” của 9 chủ nhân Nobel vật lý

Đóng góp của Bell cho sự phát triển công nghệ của nhân loại đến đó cũng đã rất đáng kể, nếu không muốn nói là một đóng góp có tính bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực liên lạc viễn thông. Tuy nhiên, việc Bell sáng lập ra hệ thống nghiên cứu sau này mang tên ông, Bell Laboratories (hay còn gọi là Bell Labs) có lẽ còn quan trọng hơn nhiều.

Số là vào năm 1880 Bell được trao giải thưởng “Volta Prize” trị giá 50 ngàn francs của chính phủ Pháp do có công sáng chế ra điện thoại. Đây là giải thưởng do vua Napoleon sáng lập. Trong số những người trong ủy ban xét tặng giải thưởng “Volta Prize” có những nhân vật kiệt xuất như Đại văn hào Victor Hugo (1802-1885), Alexandre Duma (1824 – 1895). Bell đã dùng số tiền của giải thưởng này để thành lập ra nhiều cơ sở nghiên cứu, trong đó đặc biệt nhất là cơ sở nghiên cứu mang tên ông mà sau này được gọi đơn giản là Bell Labs.

Tòa nhà đầu tiên của Bell Labs, New York. Ảnh chụp năm 1925. Nguồn: Wikipedia

Bell Labs là cái tên gắn với nhiều phát minh có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển khoa học và công nghệ có tính đột phá lịch sử như phát minh ra transistor, siêu dẫn, laser khí, vi mạch bán dẫn (chip bán dẫn), vật liệu nano-bán dẫn, solar cell cho năng lượng mặt trời, lý thuyết thông tin (Information Theory), hệ điều hành UNIX, các ngôn ngữ lập trình B, C, C++, S và rất nhiều phát minh khác nữa.

Bell Laboratories được coi một tổ hợp nghiên cứu (tư nhân) huyền thoại của nước Mỹ, nơi có đến 9 nhà khoa học được nhận giải thưởng Nobel về vật lý, trong đó có các nhà vật lý lý thuyết lừng danh như: John Bardeen, người Mỹ duy nhất được trao hai giải thưởng Nobel về vật lý (Lý thuyết siêu dẫn – BCS Theory và phát minh ra transistor), P.W Anderson cha đẻ lý thuyết vật lý mang tên ông “Anderson Localization”, William Shockley về phát minh transistor và hàng loạt hiệu ứng vật lý mang tên ông (Shockley diode equation, Shockley states, Shockley–Ramo theorem…)…

Alexandre Graham Bell (1847-1922) at the inauguration of the long-haul line from New York

Bell tại lễ khánh thành hệ thống điện thoại đường dài New York – Chicago, 1892. Nguồn: Wikipedia

Nhiệm vụ chính ban đầu đặt ra cho Bell Labs là nghiên cứu và phát triển (R&D) các thiết bị điện tử phục vụ cho công ty mẹ là AT&T – lúc bấy giờ gần như nắm độc quyền về lĩnh vực điện thoại và điện tín trên toàn nước Mỹ. Tuy nhiên, dần theo thời gian các nghiên cứu của Bell Labs được mở rộng và bao trùm hầu hết các lĩnh vực quan trọng nhất về công nghệ và kỹ thuật.

Ngay cả những vất đề khoa học cơ bản, Bell Labs cũng có những đóng góp đỉnh cao của thế giới với nhiều giải thưởng Nobel về vật lý, trong đó có những giải thưởng dành cho các công trình thuần túy lý thuyết.

Thời kỳ đầu, khi các hoạt động kinh doanh về lĩnh vực điện thoại của công ty được bảo hộ bởi các bằng phát minh của Bell và các cộng sự nên gần như không có cạnh tranh. Nói đúng ra thì AT&T cũng bị kiện cáo liên tục liên quan đến tranh chấp bản quyền phát minh. Chỉ trong 18 năm đầu, AT&T phải ra hầu tòa đến 587 lần, có 5 vụ kiện phải lên tới tòa án tối cao xét xử. Tuy vậy, AT&T không thua một vụ kiện nào cả.

Cần nói thêm là một phần không nhỏ từ lợi nhuận khổng lồ của AT&T lại được dành cho R&D tại Bell Labs nên công nghệ của AT&T càng phát triển bỏ xa các đối thủ. Tuy vậy, các nhà lãnh đạo của Bell Labs đã sớm nhận ra một nhược điểm có tính chất nguyên tắc khiến cho công nghệ điện thoại khó phát triển và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.

Thoạt tiên, hệ thống điện thoại do Bell sáng chế chỉ hoạt động được ở những khoảng cách ngắn, tối đa chỉ vài km. Muốn liên lạc bằng điện thoại đường dài bắt buộc phải sử dụng các hệ thống khuếch đại tín hiệu điện – được đặt trong ống thủy tinh chân không (gọi tắt là ống chân không – vacuum tube) hay còn được gọi là các bóng đèn chân không.

Vào năm 1906, AT&T mua lại bản quyền sáng chế bộ khuyếch đại điện tử dùng ống chân không này từ nhà nghiên cứu Lee De Forest. Bell Labs đã cải tiến hệ thống này và đưa vào sử dụng thành công trong các hệ thống điện thoại xuyên khắp nước Mỹ trải dài hàng nhiều ngàn cấy số.

Tờ New York Time đưa tin trang đầu vào ngày 26.1.1915, đại ý nói rằng tháng 10.1876 hệ thống điện thoại của Bell chỉ nối được khoảng cách 2.5 dặm (khoảng 4km), thì vào ngày 25.1.1915, hệ thống này đã kết nối New York và San Fransisco với khoảng cách 3.400 dặm (khoảng 5.400 km).

Hệ thống các khuếch đại điện tử ống chân không được đốt nóng khi hoạt động. Nguồn: Wikipedia

Tuy nhiên, các hệ khuyếch đại dạng ống chân không này có những nhược điểm không thể khác phục được về mặt nguyên tắc: hoạt động không ổn định, mau hỏng, tiêu thụ năng lượng lớn và tạo ra một lượng nhiệt lớn.

Lí do là hệ thống này hoạt động dựa trên nguyên tắc đốt nóng dây kim loại để phát ra dòng các điện tử chuyển động trong ống chân không. Vì bị đốt nóng nên các cực điện chóng hỏng, không ổn định. Mặt khác phần lớn năng lượng dùng để đốt nóng với hiệu suất khuyếch đại điện cực kỳ thấp.

Để tăng tuổi thọ và tính ổn định của các hệ thống này thì lại phải có các hệ thống làm mát, rất tốn kém. Hơn nữa, các bóng đèn chân không lại có kích thước khá lớn nên cả hệ thống chung thông thường cũng phải rất lớn để có thể chứa hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn các bóng đèn như vậy mới đủ phục vụ cho nhiều khách hàng. Chỉ cần một hoặc vài bóng đèn chân không này hỏng cũng đủ làm tê liệt toàn bộ hệ thống. Vì vậy, việc duy trì bảo dưỡng các hệ thống phức tạp hay hỏng hóc này nằm rải rác trong các vùng núi non, sa mạc mênh mông hàng chục ngàn cây số của nước Mỹ cũng là một vấn đề cực kỳ nan giải.

Một hệ thống sử dụng các khuếch đại điện tử ống chân không. Nguồn: Wikipedia

Để dễ hình dung, bạn đọc lớn lên và trưởng thành trước những năm 2000 hẳn còn nhớ những chiếc TV nặng nề, khi hoạt động thì lúc nào cũng nóng hôi hổi. Bên trong máy chứa đầy các bóng đèn điện tử dưới dạng các ống thủy tinh (chính là các ống chân không), lâu lâu chủ nhân lại phải gọi thợ đến sửa – chủ yếu là thay các bóng đèn điện tử này.

Sau gần 100 năm liên tục cải tiến kể từ lúc phát minh ra các bộ khuyếch đại điện tử đặt trong ống chân không (1906 đến 2000), các bóng đèn điện tử chân không vẫn là nguyên nhân chủ yếu gây ra hư hỏng cho các máy móc điện tử như chúng ta đã từng chứng kiến. Nên nhớ rằng TV thường chỉ hoạt động và giờ một ngày trong khi đó hệ thống liên lạc viễn thông thì làm việc liên tục không ngưng nghỉ. Vì vậy không có gì khó hiểu khi ban lãnh đạo của Bell Labs vào những năm 1930 nhận thấy cần phải tìm một giải pháp kỹ thuật hoàn toàn mới thay thế cho các hệ thống khuyếch đại dùng bóng đèn chân không.

Những gì trình bày trên đây cho thấy nhu cầu thiết yếu của sự phát triển công nghệ liên lạc điện thoại đã tạo ra tiền đề cho sự ra đời của bộ khuếch đại điện tử mới, khác nguyên tắc với loại dùng ống chân không. Phần tiếp theo sẽ nói về quá trình phát minh ra transistor, hệ thống khuyếch đại điện tử hoạt động trên nguyên tắc mới sử dụng các chất bán dẫn…

Còn tiếp…

Nguyễn Trung Dân

New York, Ngày 30. 9.2022

___________

* Tác giả bài viết có trên 25 năm nghiên cứu về vật lý lý thuyết và ứng dụng các chất bán dẫn, trong đó có thời gian nghiên cứu ở Italy, Đức, Nhật  và Mỹ (từ 1998). Là Associate Research Professor của Đại học Arizona cho đến 2017 chuyển sang làm nghiên cứu viên cao cấp tại trung tâm nghiên cứu của một công ty công nghệ cao, đa quốc gia tại New York, nghiên cứu về lĩnh vực Viễn Thông lượng tử và Mô phỏng lượng tử, đồng thời vẫn tiếp tục giữ cương vị giáo sư ngoài biên chế (Adjunct Professor) của Đại học Arizona. Là tác giả cuốn sách chuyên môn “Modeling and design photonics by examples using Matlabs” đang được sử dụng làm giáo trình trong một số Đại học ở Mỹ.

Tài liệu tham khảo:

[1] Alexander Graham Bell: https://en.wikipedia.org/wiki/Alexander_Graham_Bell

[2] Michael Riordan and Lillian Hoddeson, sách “Crystal Fire: The Birth of the Information Age”, Nhà xuất bản W W Norton & Co Inc, 1997.

Chú thích: Bài của TS Nguyễn Trung Dân được đăng lần đầu tiên trên báo Người Đô Thị, nay được tác giả cho phép đăng lại trên mạng rosetta.vn. Xin chân thành cảm ơn tác giả.