HỘI THẢO
KHOA HỌC ĐỂ PHÁT TRIỂN
TẠI TRUNG TÂM QUỐC TẾ KHOA HỌC VÀ
GIÁO DỤC LIÊN NGÀNH QUY NHƠN
NGÀY 9-10/5/2018
Nguyễn Xuân Xanh
Lời nói đầu. Tôi có vinh dự tham gia hội nghị quan trọng này thảo luận về đề tài rất “sát sườn”, gắn liền với sự sống còn của mỗi quốc gia, đặc biệt của Việt Nam: Khoa học để phát triển, và phát triển bền vững. Dưới đây tôi xin ghi lại một số nét chính của hai ngày thảo luận của rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, nhà giáo dục quốc tế. Thiếu sót hay chưa đề cập tới do đó là không thể tránh khỏi. Phải nhìn thấy sinh hoạt tại đó tại chỗ mới thấy không khí sống động, và những ý tưởng mới và kinh nghiệm được trình bày, và thấy trung tâm hội nghị ICISE là điểm nối vô cùng quan trọng giữa thế giới và Việt Nam có thể đem lại rất nhiều triển vọng.
Vào hai ngày 9 và 10 tháng 5, 2018 một Hội nghị về đề tài Khoa học để Phát triển đã diễn ra tại Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục Liên ngành Quy Nhơn, gọi tắt ICISE, với sự tham dự khoảng 150 khách quốc tế và Việt Nam, trong đó có hai nhà khoa học giải Nobel, nhà vật lý học Gerard ‘t Hooft từ Hà Lan, và nhà kinh tế Finn Kydland từ Na Uy. Dự kiến còn có thêm hai vị GS Nobel nữa, nhưng vì những lý do bất cập giờ cuối nên họ không tham dự được. Hội nghị được bảo trợ bởi Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang, một vinh dự rất lớn. Hội nghị nhận được sự bảo trợ của các tổ chức quốc tế của UNESCO, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) và Viện Solvay, cũng như sự ủng hộ của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phát triển (IRD) và Cơ quan Phát triển Pháp (AFD). Phía Việt Nam có khá đông đại diện các bộ, quốc hội, ban ngành và các đại học tham gia như Đại học Quốc gia HCM, Hà Nội, Đại học Quốc Tế Việt Nam, Đại học Cần Thơ, Hội Vật lý Việt Nam. Ngoài ra còn có Hội vật lý châu Á Thái Bình Dương, Hội vật lý Pháp, Viện Nghiên cứu Ánh sáng Synchrotron Thái Lan, Norcott Technologies Anh, đại diện của Đại học Fulbright Việt Nam, Đại học Chalmers Thụy Điển, cựu chủ tịch Ủy ban Nobel Vật lý, Hội đồng tư vấn Hàn lâm viện khoa học châu Âu, vân vân.
Năm 2018 cũng còn kỷ niệm 25 năm Tổ chức Gặp gỡ Việt Nam của GS Trần Thanh Vân và phu nhân, GS Lê Kim Ngọc, nhằm xây dựng cầu nối khoa học thế giới và Việt Nam. Họ đã hoạt động kiên trì không mệt mỏi và rất hiệu quả. Họ đã rất thành công. Uy tín của họ trong cộng đồng các nhà khoa học quốc tế rất lớn, cũng như họ được sự ủng hộ và quan tâm rất lớn của thành phố Quy Nhơn, của tỉnh Bình Định, và của Trung Ương. Từ năm 2013 đến nay, chuỗi các chương trình Gặp gỡ Việt Nam được thực hiện tại Bình Định với hơn 40 hội nghị khoa học quốc tế, 16 khóa học chuyên đề với hơn 3.500 nhà khoa học quốc tế. Đặc biệt, trong đó có 12 giáo sư đạt giải Nobel, 2 giáo sư đạt giải Toán học Fields, 2 giáo sư đạt giải Thiên văn học Kavli cùng nhiều nhà khoa học danh tiếng thuộc nhiều lĩnh vực trên toàn thế giới. Năm 2017 hai ông bà đã nhận được Huân Chương Hữu Nghị của Nhà nước Việt Nam. Chỉ trước hội nghị 3 ngày, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có chuyến thăm trung tâm hội nghị, một sự kiện rất có ý nghĩa, càng khẳng định thêm vai trò “đầu tàu” của trung tâm, và vai trò tiên phong của vợ chồng giáo sư Trần Thanh Vân. Ở đó thủ tướng cũng chứng kiến một Trung tâm Khám phá khoa học (Planetarium) dành cho công chúng, nhất là trẻ em, đã hình thành và sắp được khai trương, được xây dựng từ nguồn tài chính của tỉnh và với chất xám của nhiều nhà khoa học quốc tế thông qua sự vận động của Hội gặp gỡ. Trung tâm này có tính giáo dục khoa học, đem khoa học gần với đại chúng, khêu gợi đam mê, sáng tạo cho tuổi trẻ. Có lẽ đây là trung tâm đầu tiên như thế ở Việt Nam. Các quốc gia phát triển đều có những trung tâm như thế, ở dạng viện bảo tàng khoa học và công nghệ, nơi học sinh đến quan sát và làm những trải nghiệm khoa học, để thấy khoa học là những cái gì đi xa hơn lý trí đời thường, và có những ứng dụng kỳ diệu trong đời sống. Ngoài ra, dự tính sẽ còn có một Thung lũng sáng tạo hình thành với một số ngành công nghiệp cao. Tổng cộng các công trình sẽ nằm trên một khu đất có diện tích 200 ha. GS Trần Thanh Vân bày tỏ mong muốn được Chính phủ quan tâm tạo và điều kiện giúp tỉnh Bình Định xây dựng một đô thị khoa học và giáo dục, và xây dựng những viện nghiên cứu để tiếp nhận các nguồn lực thế giới đến với và thông qua Trung tâm hội nghị, bắt đầu ở những ngành như vật lý lý thuyết, thiên văn, toán ứng dụng, vật lý nano, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mong muốn các nhà khoa học trẻ nên học tập vợ chồng GS Trần Thanh Vân.
***
Trở lại Hội nghị với tiêu đề “Khoa học để Phát triển”. Trong bài phát biểu chào mừng trước khi khai mạc phiên toàn thể, GS Trần Thanh Vân nói:
Đối với Trung tâm ICISE, chúng tôi ở khởi điểm của một cuộc hành trình “mạo hiểm”: xây dựng một mạng lưới hợp tác và trao đổi khoa học giữa Việt Nam và thế giới, đặc biệt với các quốc gia trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Chúng tôi hết sức cần sự giúp đỡ của các bạn để làm cho Trung tâm này trở thành một địa điểm ở đó các nhà khoa học trẻ có thể có cơ hội học hỏi và chia sẻ với những người lớn tuổi hơn những ý tưởng và phương pháp mới để làm cho tri thức của thế giới chúng ta được thêm sâu sắc.
Xin hãy xem trung tâm này là mái nhà của các bạn, và mang đến đó những ý tưởng mới, những sự cải thiện mới cho sự phát triển tương lai, bằng những sự gợi ý của các bạn, xin cho chúng tôi biết. Xin chúc các bạn những điều thú vị với những khám phá đời sống văn hóa của người dân Việt Nam.
Tất cả các bạn đều có trong tim tôi.
Sau phiên toàn thể sáng ngày 9/5, hội thảo có 7 thảo luận bàn tròn và kết thúc chiều 10/5. Các thảo luận chuyên đề đề cập tới nhiều nhiệm vụ và ảnh hưởng của khoa học, như tác động của khoa học lên kinh tế và xã hội; khoa học phục vụ hoạch định chính sách; khoa học và chương trình nghị sự 2030 của Liên Hiệp Quốc về phát triển bền vững; các mô hình khoa học và phát triển; khoa học, như nhà ngoại giao và môi giới thúc đẩy đối thoại cho hợp tác và hòa bình; khoa học và cách mạng 4.0; khoa học, lĩnh vực đưa ra những cảnh báo và cung ứng giải pháp.
Mục đích chính của hội nghị là hội thảo về vai trò vô cùng quan trọng của khoa học đối với sự phát triển, phát triển bền vững, một đề tài nằm trong lộ trình thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững được Liên Hiệp Quốc thông qua cuối năm 2015. Chương trình hành động này có đối tượng là con người, hành tinh và sự thịnh vượng, bảo đảm hòa bình thế giới, và tinh thần đối tác hợp tác toàn cầu. Con người cần tồn tại với nhân phẩm, thoát khỏi đói nghèo và có điều kiện phát triển những năng lực của mình; hành tinh cần được bảo vệ cho xanh, sạch, cho bền vững, con người cần có quan niệm sống bền vững, ý thức, hòa hợp với tự nhiên; bảo đảm sự phồn vinh và thỏa mãn cuộc sống của con người trong sự tiến bộ và hài hòa với tự nhiên; nỗ lực thúc đẩy xã hội hòa bình, công bằng, bình đẳng, không kỳ thị, không có sợ hãi và bạo lực; thực hiện những điều trên thông qua tinh thần đối tác toàn cầu dựa trên sự đoàn kết, chú ý đến những khó khăn của những quốc gia nghèo và dễ bị tổn thương nhất.
Khoa học, xuất phát nguyên thủy từ óc tò mò và nghiên cứu vô vị lợi, qua mấy thế kỷ đã tác động mạnh mẽ lên sự phát triển loài người đem lại những thành tựu vĩ đại trong nhiều lãnh vực như công nghiệp, y tế. Sự khác biệt giàu nghèo, phát triển hay chậm phát triển được phản ảnh trong sự khác biệt phát triển khoa học ở tầm mức quốc gia, và bất bình đẳng thu nhập giữa các nước có nguyên nhân từ thể chế của nước đó, thể chế về kinh tế, nhưng trong đó đặc biệt chính sách đầu tư cho khoa học công nghệ, như giáo sư Kydland, giải Nobel kinh tế năm 2004 nói. “Khi một quốc gia không có các thể chế cam kết các chính sách tốt cho khoa học công nghệ”, theo GS, “thì khó để tác động trong ngắn hạn cho sự phát triển, thậm chí có thể gây tác động xấu cho xã hội”. Ông đưa ra công thức phát triển GDPt = Zt F (Kt, Lt) cho thấy, ngoài vốn (Kt) và lao động (Lt) thì tăng trưởng của GDP phụ thuộc tuyến tính vào yếu tố khoa học công nghệ (Zt). Các hoạt động kinh tế tư nhân sẽ làm gia tăng Zt. Chính phủ phải làm gì? Cần có cam kết và chính sách. Chính sách càng ổn định, càng có tác dụng tốt lên phát triển. Khoa học, công nghệ không tự nhiên chảy từ các quốc gia giàu có sang các quốc gia nghèo khó. Thông điệp của ông: đầu tư cho giáo dục, cam kết nghiên cứu khoa học để phát triển.
GS Gerard ‘t Hooft lý giải rằng sở dĩ châu Âu dẫn đầu về sự phát triển là vì người dân “có óc tò mò hơn, có nhiều phát minh hơn, quan trọng hơn là họ có tự do, tự do thể hiện quan điểm, tự do sáng tạo”. Họ có nền giáo dục tốt, và biết gắn kết tri thức với sản xuất. Hà Lan, đất nước nhỏ với khoảng 7 triệu dân đầu thế kỷ 20, vậy mà đã giành được 5 giải Nobel trong vòng 2 thập kỷ. Vì sao? Vì nước ông có nền giáo dục tốt, từ cuộc cải cách giáo dục năm 1863, thực học được thực hiện hơn là cái học từ chương, Hà Lan đã “hội nhập” bằng những ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức. Nhà vật lý vĩ đại Hendrik Lorentz từng có thể trao đổi với Einstein thành thạo bằng tiếng Đức. Giáo dục có tính khai phóng, tôn trọng ý kiến cá nhân. Hà Lan là quốc gia thương mại toàn cầu, tiếp xúc nhiều luồng tư tưởng từ các dân tộc khác nhau, nên khoan dung là thái độ rất hợp lẽ. [Hà Lan là từng là một quốc gia khoan dung rất sớm. Đại học đầu tiên, và lớn nhất của đất nước là Đại học Leiden, được thành lập năm 1575 bởi William I, Vương tước xứ Orange, người lãnh đạo cuộc nổi loạn chống lại sự thống trị của Tây Ban Nha. Ông quan niệm đại học là nguồn lực tri thức cho quốc gia, giống như vai trò của Đại học nghiên cứu Berlin hơn 200 năm sau. Đại học là nguyên khí. Đại học Leiden có thái độ khoan dung với nhiều học giả “dị giáo”, trong đó có Descartes và Spinoza. Thực ra Hà Lan là đất nước nổi tiếng khoan dung cho những người tị nạn chính trị hay tôn giáo.]
GS ‘t Hooft cho vai trò của khoa học vô cùng lớn lao, vô cùng mạnh mẽ, để đẩy lùi lạc hậu. Hãy tôn trọng những nhà khoa học. “Chúng ta không thể cho phép mình tin tưởng mà không có cơ sở khoa học”. Khoa học phải tham gia vào tất cả các quá trình lập chính sách. [Thực ra các quốc gia láng giềng đều thế.] Cho nên giáo dục khoa học cho trẻ em sớm, làm cho chúng sớm có cảm hứng và đam mê. Khi xem planetarium sắp sửa khai trương, ông chăm chút các thí nghiệm lạ mắt như đứa trẻ tò mò. Ông cũng khuyên “các bạn làm khoa học nếu chưa giỏi tiếng Anh phải học ngay, vì đó là ngôn ngữ của khoa học” thống lãnh hiện nay trên thế giới.
Thứ trưởng Bộ Khoa học-Công nghệ Phạm Công Tạc, đại diện cho Việt Nam phát biểu, “sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, nhưng lực đẩy cho sự phát triển đó là lao động giá rẻ và tài nguyên đều đang dần cạn kiệt. Vì thế, khoa học kỹ thuật phải là yếu tố quyết định cho sự phát triển để đưa Việt Nam tiến gần hơn đến với thế giới.”
Còn nguyên Bộ trưởng Bộ KH-CN Nguyễn Quân chia sẻ: Nguồn lực Việt Nam rất đông, nhưng trình độ thì còn rất thấp, sức sáng tạo còn yếu, quyền tự chủ còn rất hạn chế, chưa có chế độ đãi ngộ thích hợp. Ông mong muốn khoa học công nghệ phải là động lực của phát triển quốc gia, đến năm 2035 (đề án 2016), Việt Nam phải là quốc gia có thu nhập trung bình trong khu vực và có nền khoa học phát triển tiên tiến. Ông nhìn thấy ở ICISE một “biểu tượng của những nhà làm khoa học chân chính.” Ông mong mỏi những cuộc gặp gỡ tại trung tâm ICISE có tác động tốt đến quá trình đổi mới và phát triển khoa học tại Việt Nam.
Mô hình viện nghiên cứu hợp tác với Hàn Quốc VKIST như là một thí điểm cho một mô hình viện nghiên cứu mới, như lời của đại biểu quốc hội Nguyễn Thanh Phương, nhằm ngăn chặn chảy máu chất xám, và thu hút trí thức Việt Nam ở hải ngoại. Thành công sẽ phát triển tiếp nhiều viện mới.
Khoa học còn là “người môi giới cho hòa bình và phát triển” không biên giới. Lịch sử của trung tâm hạt nhân châu Âu CERN là một thí dụ điển hình. Được thành lập năm 1954 giúp các dân tộc từng gây chiến tranh ngồi lại nhau và chung sức phát triển. Khám phá nổi tiếng nhất của CERN là Hạt Higgs năm 2012. Không những các nhà khoa học châu Âu, mà ngày càng có nhiều nhà khoa học từ Mỹ đến tham gia nghiên cứu. CERN được cấp cho quy chế quan sát viên tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Herwig Schopper, nguyên tổng giám đốc CERN, đã gợi ý trong buổi tiếp kiến với Chủ tịch nước Trần Đại Quang ở Hà Nội rằng nên thành lập một cơ quan khoa học tương tự như thế trong vùng để phát triển và củng cố tinh thần hòa bình, hợp tác vì sự thịnh vượng chung.
Tiếng vang của Hội nghị này trong các phương tiện truyền thông VN là rất lớn. Vì nó nói đúng chỗ VN đang cần và vấp váp: đưa khoa học công nghệ vào đời sống kinh tế quốc gia, đưa giáo dục khoa học vào quốc sách thực sự; dẹp bỏ các rào cản hiện nay để khoa học công nghệ phát triển đúng tiềm năng của nó, và đúng với tiềm năng sáng tạo của quốc gia. Các thính giả se lòng lại khi nghe những lời bộc bạch từ trái tim của nguyên bộ trưởng Bộ khoa học và công nghệ Nguyễn Quân. Ông nói về những khó khăn để khoa học công nghệ thoát khỏi những sợi dây trói buộc từ những quy định luật pháp rối rắm vô lý, sự “bất nhất” của hệ thống luật pháp Việt Nam, chỗ này muốn đổi mới, nhưng chỗ kia thì tiếp tục níu lại, “những chồng chéo, rào cản không dễ gì thoát ra được”, “chuyên ngành phải do chuyên ngành quyết định, không thể do những luật khác chi phối”, “quyền tự chủ vẫn bị luật cản trở”. Ông bộc bạch những điều đó không phải bây giờ lúc đã về hưu, như ông nói, mà ông đã từng tranh đấu lúc còn tại chức, và hy vọng lúc nào đó tình hình sẽ được khai thông.
Trong buổi gặp gỡ ngày hôm sau tại Hà Nội với các nhà khoa học của Hội nghị Quy Nhơn, chủ tịch nước Trần Đại Quang nói: “Tôi mong rằng trong thời gian tới các bộ, ngành Trung ương tiếp tục đồng hành cùng tỉnh Bình Định, Giáo sư Trần Thanh Vân và phu nhân, cùng với sự hỗ trợ của các nhà khoa học quốc tế và Việt Nam, để tiếp tục xây dựng Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành hoạt động ngày càng hiệu quả thiết thực, phục vụ cho sự phát triển của khoa học, giáo dục không chỉ của Bình Định, các tỉnh miền Trung mà còn của cả nước.”
Phải nói rằng, trung tâm ICISE ở Quy Nhơn có một vai trò cầu nối vô cùng quan trọng nếu Việt Nam biết “khai thác” để đẩy mạnh tiến trình “khoa học hóa”, công nghiệp hóa đất nước. Trái banh đang nằm trên phía Việt Nam. Người Nhật sau hơn nửa thế kỷ xây dựng nền khoa học từ thời Minh Trị 1868 mới được vinh dự đón tiếp nhà khoa học giải Nobel đầu tiên năm 1922: Albert Einstein. Chúng ta đang có rất nhiều thuận lợi hôm nay. Không chỉ có nhiều nhà khoa học giải Nobel mà còn nhiều nhà khoa học tên tuổi khác đến thăm Việt Nam và sẵn sàng trao đổi kinh nghiệp, nếu chúng ta biết “khai thác”. Các đại học, các viện nghiên cứu có thể kết nối với trung tâm ICISE để nêu lên yêu cầu và mong muốn của mình. Đây là nhịp cầu vô cùng thuận lợi, có tính “chiến lược” có thể giúp bức tranh khoa học Việt Nam thay đổi nhanh chóng.
Góp ý của các nhà khoa học với Chủ tịch nước tại buổi tiếp kiến Hà Nội: Một điều tôi muốn chia sẻ, đó là Hà Lan, đất nước của tôi, đã đạt được sự phát triển như vậy là do có một hệ thống giáo dục tiến bộ từ cuối thế kỷ 19. Do đó tôi cho rằng giáo dục là lĩnh vực mà Việt Nam cần chú trọng, bởi sự phát triển thịnh vượng bắt nguồn từ khoa học, công nghệ và tri thức. GS GERARD ‘T HOOFT, NOBEL VẬT LÝ Tăng trưởng kinh tế bắt nguồn từ sự thay đổi của khoa học, kỹ thuật. Cần có một hệ thống giáo dục tiên tiến nâng cao chất lượng đại học. Tôi thấy Việt Nam đang làm điều này. Tôi đề xuất thành lập một tổ chức liên quốc gia như trung tâm phát triển châu Âu xoay quanh việc nghiên cứu phục vụ sự phát triển bền vững. Đây không phải là công việc dễ dàng. Tuy nhiên tôi cho rằng, nếu có một dự án như vậy, Việt Nam là nơi tốt nhất vì Việt Nam có một vị thế cao và có quan hệ tốt với các tất cả các quốc gia trong khu vực. GS FINN KYDLAND, NOBEL KINH TẾ Đã đến lúc Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật bằng cách thu hút các nhà khoa học tên tuổi thế giới, hoặc tham gia các tổ chức liên minh khoa học quốc tế, ví dụ như trong lĩnh vực vật lý học cơ bản và ứng dụng toàn cầu, bởi đây là nền tảng phát triển kinh tế. GS HERWIG SCHOPPER NGUYÊN TỔNG GIÁM ĐỐC CERN |
Kết luận cá nhân. Khoa học công nghệ tác động quyết định vào sự phát triển tiềm lực kinh tế quốc gia và quốc phòng. Điều đó đã trở thành “bài học vỡ lòng”. Việt Nam, Trung Quốc từng là nạn nhân của sức mạnh to lớn đó của các cường quốc châu Âu. Người Nhật hiểu ngay và đã nhanh chóng cải tổ đất nước, phát triển khoa học công nghệ, và giáo dục định hướng phương Tây, thoát khỏi hiểm họa và trở thành cường quốc châu Á đầu tiên.
Nhà vật lý hạt Mỹ giải Nobel Steven Weinberg đặc trưng tầm quan trọng của khoa học và nghiên cứu khoa học đối với sự phát triển quốc gia qua câu nói sâu sắc, có lẽ đầy đủ nhất mà tôi thường trích dẫn:
Đại học nghiên cứu (khoa học) là một dạng đặc biệt của loại trường bắt đầu ở Đức trong thế kỷ 19 (xem Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm), và đầu tiên được du nhập vào Hoa Kỳ thời gian chưa lâu, đầu tiên tại Johns Hopkins, khoảng một thế kỷ trước. Các đại học chúng ta là chỗ tuyệt vời cho các thành viên khoa và sinh viên cao học làm nghiên cứu, và chính chúng vô cùng quan trọng cho đất nước chúng ta. Tôi tin rằng không có các đại học nghiên cứu lớn, chúng ta ở Hoa Kỳ sẽ phải tự nuôi sống bằng cách trồng đậu nành, và giới thiệu Grand Canyon cho du khách từ Đức và Nhật Bản.
Đại học đó, Đại học Berlin, nay trở thành loại hình đại học nghiên cứu toàn cầu, từng lấy khoa học, và nghiên cứu khoa học làm động cơ của sự phát triển, điều cũng chính là dòng suy nghĩ của hội nghị “Khoa học để phát triển” hôm nay. Không có khoa học, và nghiên cứu khoa học, sẽ không có đại học như trong tinh thần Humboldt, không có phát triển, và chúng ta, người Việt Nam, cũng sẽ như thế, phải tự nuôi sống bằng trồng lúa, và giới thiệu vịnh Hạ Long cho khách du lịch Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước khác đến xem.
Vấn đề là làm sao, thể chế quản lý nào, cam kết nào, giáo dục nào, biện pháp nào, nhân sự lãnh đạo nào, đòn bẩy tài chính nào, để một mặt làm cho giáo dục nâng cao hàm lượng khoa học, chất xám, mặt khác thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa đất nước nhanh chóng thông qua áp dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nhà nước đã đến lúc không thể chần chừ trong việc xóa bỏ những rào cản hành chánh không hợp lý để giải phóng người lao động trí thức, nhà doanh nghiệp, nhà sản xuất, các đại học để họ phát triển. Cạnh tranh trên thương trường là cạnh tranh sản phẩm công nghiệp mà chất lượng và mẫu mã luôn luôn thay đổi và cải tiến. Điều đó không phải mới hôm nay. Các quốc gia châu Âu đã từng trải qua giai đoạn cạnh tranh gay gắt này trong thế kỷ 19. Nhưng ở Việt Nam dường như điều đó chưa phản ảnh vào thực tế cuộc sống. Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới và phát triển vẫn chưa có những sản phẩm chất lượng công nghệ cao trên thị trường thế giới, chưa có các ứng viên triển vọng cho các đại công ty công nghiệp kiểu các chaebol hay zaibatsu của Hàn Quốc hay Nhật Bản. Thước đo lường hiệu quả của thể chế nằm ở các sản phẩm đầu ra. Các quốc gia cạnh tranh nhau không còn là cạnh tranh về thể chế chính trị, mà về chính sách phục vụ cho sự phát triển khoa học và kinh tế là chủ yếu, về lãnh đạo, về tầm nhìn, năng lực, tính quyết đoán, và thông minh. Ai đến muộn, kẻ đó sẽ bị định mệnh trừng phạt, như một câu nói quen thuộc. Một đất nước anh hùng như Việt Nam, có những tiềm năng trí tuệ rất lớn, sớm có một Ngô Bảo Châu, một Đàm Thanh Sơn, không thể cam chịu số phận của một dân tộc hạng ba, hạng hai như hiện nay. Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi mạnh mẽ từ bên trong để có nhiều ánh sáng khoa học chiếu vào kích thích sự phát triển. Nhà nước tự mình phải là nhà nước đổi mới sáng tạo để lãnh đạo cuộc đổi mới sáng tạo vĩ đại của nhân dân. (Xem Nhà nước đổi mới sáng tạo)
Về bảo vệ môi trường, xin xem khúc quanh lịch sử của quyền lực con người từ thân phận những sinh linh lệ thuộc vào tự nhiên đã trở thành lực địa chất toàn cầu tác dụng lên hành tinh hơn cả các lực địa chất khác được mô tả ở đây: Paul J. Crutzen, Địa chất học của nhân loại, để cho thấy trách nhiệm của con người đối với hành tinh là nặng nề hơn bao giờ hết. Cần phải gắn liền phát triển với bảo vệ môi trường để bảo đảm tính bền vững. Phá hoại môi trường, là phá hoại căn nhà sống của con người, và sẽ phải trả giá đắt, có nguy cơ không đảo ngược được. Chúng ta giờ đây cần khoa học hơn bao giờ hết để dẫn dắt hành vi chúng ta trên con đường bảo vệ hành tinh xanh.
Để kết luận, tôi xin trích lời của nhà vật lý học vĩ đại Mỹ thế kỷ 20, Richard Feynman nói về các di sản, và động lực của văn minh phương Tây đã gây nên sự tiến bộ, nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhật của ông ngày 11 tháng 5 vừa qua:
Văn minh phương Tây, dường như đối với tôi, được xây dựng trên hai di sản vĩ đại. Một là tinh thần khoa học của phiêu lưu – phiêu lưu vào cõi chưa biết, những cái chưa biết cần phải được nhận thức là chưa biết để có thể được thám hiểm. […] thái độ (chấp nhận) tất cả mọi thứ đều không chắc chắn; tóm lại, đó là sự khiêm tốn của tri năng. Di sản vĩ đại khác là đạo đức Kitô giáo – nền tảng hành động dựa trên tình thương, tình huynh đệ của tất cả con người, giá trị của cá nhân – sự khiêm cung của trí tuệ.
Người Nhật Minh Trị đã tiếp thu di sản thứ nhất, và thay thế di sản thứ hai bằng biểu tượng Hoàng đế Minh Trị. Người Việt cũng cần phải nhanh chóng rút một bài học thích hợp cho mình, vì sự tồn vong của đất nước.