Trần Việt Phương: “Bàng hoàng khi bước vào Đại học”

by , under Uncategorized

“BÀNG HOÀNG KHI BƯỚC VÀO ĐẠI HỌC”(1)

 Trần Việt Phương

Lời nói đầu. Ngày 6 tháng 5, 2021, kỷ niệm ngày mất thứ 4 của nhà thơ, nhà văn hóa, nhà chính trị Trần Việt Phương. Mười một năm trước (2010) ông đã cùng tham gia Kỷ yếu ĐẠI HỌC HUMBOLDT 200 NĂM:

Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm

Đó là niềm vui và vinh dự lớn cho chúng tôi, làm cho số Kỷ yếu trở nên thêm phần trang trọng và súc tích. Cảm giác “bàng hoàng” của ông khi bước vào đại học giống như cảm giác tôn kính của nhiều sinh viên khi bước vào đại học hay thư viện, những thánh đường học thuật vĩ đại ở châu Âu. Đại học, như nhà triết học J. G. Fichte nói, là “tài sản thiêng liêng nhất mà nhân loại có được.” Có lẽ ông đã có sự cảm thụ sâu sắc về đại học nên mới có được cảm giác bàng hoàng, chứ không phải xem đại học chỉ là “bộ máy” để sản xuất ra những sản phẩm của nó.

Dưới đây tôi xin đăng lại bài viết đó để kỷ niệm và tưởng nhớ ông. Sau số Kỷ yếu, tôi có dịp một lần gặp ông tại Hà Nội vào một buổi tối, có cả chị Phạm Chi Lan (tôi cũng lần đầu tiên gặp gỡ), anh Lê Đăng Doanh và nhiều sĩ phu khác. Lúc đó tôi được biết rằng ông sống chay trường. Lúc đó tôi mới cảm nhận được nhân cách lớn của ông. Ông nổi tiếng với những tập thơ Cửa mở năm 1970 và Cửa đã mở năm 2008.

Ngoài ra ông cũng đã tham gia Kỷ yếu mừng Đặng Đình Áng 80 tuổi năm 2006. Hai người từng là bạn học thân thiết của trường Bưởi (Chu Văn An), cả hai đều thích toán, nhưng rồi sau đó phải chia tay kẻ bắc người nam. Năm 1975, khi vào Sài gòn, người đầu tiên ông đến thăm là Đặng Đình Áng đang sống căn hộ đường Duy Tân, giờ là Phạm Ngọc Thạch. Ông tin rằng, nhà thơ và nhà toán học, bản chất, rất gần gũi nhau. NXX

Nhà thơ Việt Phương đã được cứu nhờ Tổng bí thư Lê Duẩn

Trần Việt Phương (1928-2017).

(Ảnh từ báo Vietnamnet)

 

Đầu năm 1945, tôi đang học dở dang trung học phổ thông thì phải ngừng học, từ đó đến nay tôi chỉ tự học, chứ không được theo học ở một trường, một lớp nào cả. Cách đây 66 năm, mùa hè năm 1944, lần đầu tiên tôi được đến một trường đại học, là trường Đại học Hà Nội. Ít lâu sau thì tôi biết rằng đó là một trường đại học rất nhỏ bé và nghèo nàn, nhưng trong lần đầu gặp gỡ, tôi choáng ngợp trước vòm trần cao vút ở sảnh chính của trường và trước giảng đường có bậc, khác hẳn lớp học trường phổ thông. Trường đại học bấy giờ đối với tôi chói ngời ánh sáng, uy nghiêm, cao cả, thiêng liêng, huyền bí, như thánh đường chứ không phải học đường. Ấn tượng sâu đậm thời non trẻ ấy theo tôi suốt cả cuộc đời.

Có thể sự miệt mài tự học là một trong những cơ duyên đã khiến cho từ hơn nửa thế kỷ nay, tôi có những dịp đến nhiều trường đại học, chưa  bao giờ có được tư cách sinh viên, mà lại vội vàng quá sớm mang tư cách là thuyết trình viên một số vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội.

Trong tiến trình học hỏi về giáo dục và về đại học, tôi có một kỷ niệm thấm thía. Anh Tạ Quang Bửu, một nhà trí thức, một thầy giáo, một người tổ chức giáo dục, từng làm Bộ trưởng Bộ đại học nước ta, là người tôi quý mến và thân thiết. Cách đây chừng 40 năm, một lần anh Tạ Quang Bửu nói với tôi một nhận định mà tôi nhớ nguyên văn từng lời và luôn luôn ghi lòng tạc dạ :

“Con người biết đọc biết viết là người thoát nạn mù chữ. Con người nghiêm chỉnh học tập và nghiên cứu ở trường đại học, khi tốt nghiệp đại học là người bắt đầu thoát nạn mù nghĩa. Từ đó, con người phải được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, học tập suốt đời, chủ yếu là tự học hành, tự nghiên cứu, qua các bậc trên đại học, vươn lên những đỉnh cao trí tuệ và sáng tạo khoa học mà loài người đạt đến trong từng chặng đường lịch sử.”

Là một người tự học, tôi có một mong muốn riêng, có lẽ là sai lầm, nhưng chân thực hình thành từ tâm trí và máu thịt của mình: Mong sao trường đại học tạo cho người học những cơ hội, những thử thách, những trải nghiệm, sự đánh giá, sàng lọc và lựa chọn giống như ở trường đời, cũng giàu thực tế và thực tiễn, cũng thấm đẫm sự phong phú, phức tạp, tinh diệu của trường đời, chỉ khác là có chương trình, có bài bản, có phương pháp của khoa học hiện đại.

Mấy chục năm nay, càng hiểu thêm về vai trò của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trong công cuộc phát triển của từng dân tộc, của mỗi quốc gia, của cả loài người, càng hiểu thêm về những đòi hỏi cơ bản đối với giáo dục và đại học, tôi càng dằn vặt, day dứt, cố hết sức đóng góp chút ít cùng biết bao anh chị em tìm kiếm giải pháp khắc phục những khuyết tật, yếu kém, sai lệch, hư hỏng trong nền giáo dục và nền đại học nước nhà.

Năm nay 82 tuổi, trong một góc thầm kín con người tôi vẫn còn nguyên vẹn cảm giác bàng hoàng của người thanh niên 16 tuổi 66 năm trước lần đầu tiên được bước vào thăm một trường đại học.

Nếu được nói ngắn gọn điều tôi ấp ủ về gíáo dục và đại học, thì tôi xin nói rằng : Tôi kính trọng, cảm phục, ngưỡng mộ, biết ơn những người đã tạo dựng thành công nền giáo dục và nền đại học hiện đại tiên tiến của loài người. Tôi tha thiết mong chờ và có niềm tin, dẫu là tin ngây thơ, vào bước tiến trong những năm sắp tới của nền giáo dục và nền đại học Việt Nam.

 

                                                                                                       Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 2010

 

Lời bạt

Xin nói thêm, nhà thơ Trần Việt Phương không phải là Phật tử theo nghĩa thường, nhưng có triết lý sống rất đượm màu Phật giáo. Để hiểu thêm nhân cách, đời sống văn hóa, và sức mạnh nội tâm của ông, xin giới thiệu bài đăng trên trang Facebook của Nguyễn Anh Tuấn, người sáng lập viên và điều hành mạng vietnamnet một thời, trong đó có bài phỏng vấn của doanh nhân Tạ Thị Ngọc Thảo với Trần Việt Phương (2011) về ảnh hưởng của Phật giáo lên ông:

https://www.facebook.com/login/?next=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2FTuanBGF%2Fposts%2F10225001358719161

Có thể xem ở đây

Nguyen Anh Tuan

Hôm nay, 6/5 là ngày chú về với Phật (ngày dương lịch), ngày âm lịch là 12/4, chưa đến. Nhưng như thường lệ, cháu giới thiệu những tác phẩm, hay tư duy, suy tưởng của Chú vào ngày 6/5. Nhanh quá, mới đó mà đã 4 năm rồi Chú ạ. Nhưng với cháu, thì Chú có bao giờ đi xa đâu, Chú vẫn luôn bên cháu.
Hôm nay, cháu giới thiệu bài Chú trả lời phỏng vấn Tạp chí Văn Hoá Phật Giáo, khá chân thực về tư duy và quan niệm của Chú.

Sống Phật
Nhà Văn Hoá Việt Phương

Lời giới thiệu: Khi tôi hỏi, “Thưa chú, cháu muốn viết vài dòng giới thiệu về chú thì, theo chú, cháu nên viết như thế nào cho đúng, đủ và không thừa ạ?

Chú Trần Việt Phương trả lời rằng, “Chỉ cần một dòng thôi, không tới vài dòng đâu cháu ạ: Trần Việt Phương, tên khai sinh Trần Quang Huy, người Hà Nội gốc, sinh năm 1928, hoạt động yêu nước từ năm 1944 và làm thơ từ năm 1960”.

Tôi hỏi xen ngang, “Thưa chú, chú định làm thơ cho đến bao giờ?”. Không suy nghĩ, chú Trần Việt Phương nói như nói từ trái tim ra, “Chú nghĩ rằng người làm thơ cần tự biết mình, khi không còn sức sáng tác thì nên dừng lại. Có một nhà thơ đàn anh dặn chú: “Có thể gắng làm thơ, nhưng đừng gượng làm thơ”. Chú thấy lời dặn ấy rất đúng và chú xin làm theo như vậy”.

Đợi chú dứt lời, tôi hỏi tiếp: Thế còn những công việc phải làm của một chuyên gia chính trị – kinh tế cấp cao chú định bao giờ kết thúc ạ? Chú trả lời, giọng chú rất nhỏ: “Đó là nghiệp, không phải nghề, cháu ạ”.

Tôi nghĩ, giới thiệu chừng đó về chú chưa đủ, vội nêu ý muốn viết thêm dòng nữa, dòng đó như thế này đây: “Ông không tự nhận mình theo đạo Phật nhưng tất cả những gì toát ra từ ông, rất Phật”. Chú đồng ý thêm câu này vào lời giới thiệu.

Chú là như vậy, và nội dung bài phỏng vấn này sẽ thể hiện như vậy: Một Trần Việt Phương bàng bạc Phật tánh một cách tự nhiên, Phật tánh mà như không Phật tánh.

Bởi, Phật tánh ở con người ông chính là tinh thần dân tộc Việt Nam ta.

Tạ Thị Ngọc Thảo (ttnt): Thưa ông, ông là người mà, từ trẻ, đã đi theo cách mạng, đã làm cách mạng, đã sống với cách mạng, đã thuộc vào tầng lớp lãnh đạo cách mạng, và đã được trí thức, quần chúng yêu quý như một nhà chính trị chân chính; xin ông vui lòng cho biết người làm cách mạng có một đời sống tâm linh không?

Trần Việt Phương (TVP): Tôi làm cách mạng từ trẻ nhưng chưa bao giờ thuộc tầng lớp lãnh đạo cách mạng.

Theo tôi hiểu, hiện nay có những quan niệm khác nhau về tâm linh là gì và có vai trò như thế nào. Xin không đi vào những vấn đề ấy. Tôi chỉ nghĩ rằng người nào cũng có tâm linh và có đời sống tâm linh, dẫu có tự biết rõ như vậy hay không.

Người làm cách mạng nói chung là một người tỉnh thức, nên có một đời sống tâm linh mà tự mình biết rõ.

Năm 16 tuổi, khi bắt đầu làm cách mạng, do trải nghiệm chừng nào cuộc sống trên phố hè Hà Nội và do học văn học Pháp, tôi biết khái niệm linh hồn và đã có cảm nhận thực tế về linh hồn. Công tác cách mạng đầu tiên của tôi là chiến đấu chống một âm mưu và hành động định tha hoá linh hồn lớp học sinh trẻ chúng tôi. Càng lớn lên, càng làm cách mạng lâu hơn, tôi càng thấy tầm quan trọng sâu xa của đời sống tâm linh đối với con người và xã hội người.

ttnt: Những người làm cách mạng ở Việt Nam thường có ý thức cách mạng từ nhỏ, do phần đông người làm cách mạng là dân nghèo, hoặc có kinh nghiệm sống với dân nghèo. Riêng ông, lúc nhỏ, ông đã có kinh nghiệm sống gì khiến ông vừa là người đi làm cách mạng, vừa là người có những kỷ niệm gần gũi với nhà Phật?

TVP: Tôi là con thứ tư trong một gia đình có 7 con của một công chức bậc thấp thời trước, chồng là giáo viên tiểu học, vợ vốn là người bán rau, sau khi lấy chồng thì ở nhà làm nội trợ và nuôi dạy con. Từ năm 10 tuổi đến năm 16 tuổi, đến khi đi làm cách mạng, tôi là bạn hàng ngày của nhóm thiếu niên, thanh niên dân nghèo đầu đường xó chợ ở chợ Hôm và phố hè Quận Hai Bà, Hà Nội.

Suốt 6 năm ấy, trong tôi có một người học sinh trường Bưởi (tôi chỉ dành rất ít thì giờ cho việc học), và có một đứa trẻ đầu đường xó chợ trong phần lớn thời gian của mỗi ngày, mỗi đêm. Một lần cùng bạn đầu đường xó chợ đi qua nhà tôi ở phố Mai Hắc Đế, gần chợ Hôm, tôi chỉ vào nhà mà bảo: “Nhà tao đây”, thì dẫu đó là căn nhà một tầng xoàng xĩnh, các bạn tôi đều nghĩ rằng tôi là đầy tớ, ngày xưa gọi là “thằng nhỏ”, vừa xin được vào hầu hạ trong nhà ấy, chứ không thể nghĩ tôi là con chủ nhà.

Kỷ niệm và bài học đầu đời thấm thía của tôi, theo tôi suốt đời, là từ một gia đình nghèo, ngày càng sa sút, từ bạn đầu đường xó chợ, từ Văn hoá phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp.

Tôi đã được gặp nhiều người Phật, đặc biệt là trong dân nghèo.

ttnt: Ông là nhà chính trị, ông là hội viên Hội nhà văn, và ông còn là một nhà thơ – trong thơ ông cũng đượm chất cách mạng. – Tập thơ “Cửa mở” của ông thể hiện điều đó. Ông có thể chia sẻ điều gì đã thôi thúc ông viết những vần thơ khí khái và đẹp đẽ như thế?

TVP: Thơ của tôi là ước vọng và chừng nào thực tế cuộc đời tôi, là cách tôi hiểu, tôi quan hệ với con người, với cuộc đời, với sự sống.

ttnt: Trong những bài thơ nóng bỏng tính chính trị và cách mạng của ông, lại có những câu thơ mà người đọc, nếu là Phật tử, sẽ suy qua lĩnh vực khác. Ví dụ, hai câu thơ trong bài thơ “Ai”: “Ta giãy giụa trong vòng xoáy sinh tồn/ Chỉ mong một môi trường không ô uế”. Thưa ông, “môi trường không ô uế” mà ông mong đó có phải chỉ là môi trường chính trị? Có bao giờ ông nghĩ, tư tưởng Phật giáo có thể góp phần lớn tạo ra môi trường không ô uế đó?

TVP: Tôi nghĩ rằng triết học Phật góp phần rất to lớn tạo ra môi trường sống không ô uế.

Theo sự tìm hiểu còn rất sơ lược và có thể có chỗ sai lầm của tôi đã nhiều năm rồi về lịch sử triết học, tinh thần, tâm linh của Ấn Độ, từ thời Vedi khoảng hơn 9000 năm trước Giê-xu, qua thời Bà-la-môn chừng 1500 năm trước Giê-xu, đến thời Phật hơn 500 năm trước Giê-xu, tôi còn nhớ lại như sau :

Buddha trong tiếng Sanskrit có nghĩa là người tỉnh thức, người đã tự khai sáng, nghĩa ấy dần dần rộng thêm ra, nói về người đại ngộ, gặp được niết bàn (Nirvana) ngay trong mình, trở thành người đại hạnh, người đã đến được nơi tận cùng cần đến. Sakyamuni (Thích ca mâu ni) có nghĩa là người hiền triết (muni) thuộc lớp người Sakya, là lớp tinh hoa của đẳng cấp tinh hoa, vốn tên là Gautama. Sakyamuni là một người hiền triết thuần khiết, nhưng không phải người duy nhất. Chỉ riêng ở Ấn Độ, trước và sau Gautama, có nhiều người hiền triết thuần khiết. Ở khắp các thời và khắp các nước trên thế giới, những người hiền triết thuần khiết càng nhiều hơn.

Điều đặc biệt của Gautama là sau khi đại ngộ, Gautama đã dành 45 năm, từ năm 35 tuổi đến năm từ trần 80 tuổi, để đi tuyên đạo, truyền đạo và hành đạo, trở thành người sáng lập Phật giáo. Một trong những chỗ sáng giá của Phật giáo nguyên thủy là chống lại tư tưởng và tinh thần phân chia đẳng cấp quá nặng của Bà-la-môn, tự tôn Bà-la-môn là đẳng cấp thượng đẳng.

Có một chi tiết trong đời Gautama tôi rất thích: Sau khi rời gia đình quyền quý ra đi, cùng với 5 bạn đường sống đời khổ hạnh, ở đáy của xã hội, chịu mọi đau thương, cực nhọc, vừa sống điêu đứng vừa suy ngẫm, chiêm nghiệm, đến cuối năm thứ 5, Gautama thấy ra rằng khổ hạnh và ép xác như vậy không phải là con đường chân chính để đến nơi cần đến, nên đã bỏ, không tiếp tục như thế, và bị 5 người bạn cho là phản bội. Nhưng chính nhờ sự thấy ra ấy, cũng là một sự ngộ quan trọng, mà 1 năm sau, Gautama đại ngộ khi ngồi suy ngẫm dưới một gốc cây bồ đề. (tôi dùng những từ của tôi: “suy ngẫm”, “chiêm nghiệm”, chắc không phải từ nhà Phật).

Về triết học, theo cảm nhận có tính chất cá nhân của tôi, sự đại ngộ của Gautama có thể tóm tất là: Cùng một lúc, Gautama thấy tất cả, nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, cảm thấy tất cả, cái tất cả ấy thật sự là tất cả, bao gồm tất cả sự người trên trái đất, và rộng lớn hơn đến vô cùng, tất cả sự sống trong tất cả các vũ trụ, vũ trụ này và các vũ trụ khác, đồng thời cùng một lúc, Gautama thấy tất cả là không có gì.

Tất cả là không có gì, và không có gì là tất cả. Tôi hiểu rằng câu trên đây là sự tóm lược thô thiển, thiếu sót, và có thể sai, triết học rất sâu xa, phong phú của Ấn Độ thời Phật, với đóng góp của nhiều nhà triết học Ấn Độ xuất sắc, mà người ta gọi chung là triết học Phật.

Về kinh Phật, tôi có một kỷ niệm: Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tôi gặp một bài tôi rất thích, trong đó có một đoạn ý là Nguyễn Du từng đọc nhiều kinh Phật, nhưng thấy chưa được rõ ràng, cho đến khi nhận ra rằng:

“Tài tri vô tự thị chân kinh”
(Tạm dịch: Mới biết rằng không có chữ là chân kinh)

Trong bài ấy, tôi đặc biệt thích hai câu :
“Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Si tâm quy Phật, Phật sinh ma”
(Tạm dịch : Người tự biết lòng mình thì người tự cứu
Si tâm quy Phật, Phật sinh ma)

Tôi đã nghĩ đến bài ấy khi tôi viết :
“Sáng đi quanh Hồ Gươm xem mua bán
Đêm khuya về thơ chữ Hán Nguyễn Du
Hà Nội phố nhoáng nhoàng và thanh thản
Hương a còng lãng mạn đẫm mùa thu”

Tôi thường nghĩ rằng: Sống tử tế, lương thiện, giản dị, chân thành, vị tha, sống hướng tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, sống phấn đấu phát hiện và thực hiện cái mới, cái sáng tạo là sống Phật, tuy không hề nghiên cứu triết học Phật, cũng không hề theo Phật giáo. Có nhiều lúc, tôi muốn viết “triết học phật”, chứ không phải “triết học Phật”. Ở đây, Phật là danh từ chung, không phải danh từ riêng.

[…]

ttnt: Đã hơn một lần ông tự nhận mình là “con vật chính trị” (political animal). Cụm từ đó có một định nghĩa chính xác và nhân bản xuất phát từ quyển “Chính trị” của triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384–322 TCN). Aristotle đã viết: “Mục đích của con người là đi tìm hạnh phúc”. Quan điểm này rất gần với đạo Phật, vì mục đích tối hậu của Đức Phật là chấm dứt khổ đau. Vậy “con vật chính trị” trong ông ý niệm gì về đạo đức và suy nghĩ gì về hạnh phúc, thưa ông?

TVP: Tôi là một con vật chính trị suốt đời, mà nghề nghiệp không phải chỉ là hoạt động chính trị thực tiễn, dẫu nếu tốt đẹp thì hoạt động ấy giàu tình yêu và tính nhân văn. Nghề nghiệp của tôi là suốt đời phấn đấu vận dụng trong chính trị thực tiễn triết học, lý luận, tư tưởng mà tôi lựa chọn, noi theo, và những cảm xúc, những tình cảm của riêng tôi.

Con vật chính trị ấy đã viết nhiều lần 2 ý sau đây :

“Đi cho cuối đất cùng trời
Đến nơi người thật là người với nhau”

“Một đời tích oán nuôi hờn
Thì thôi một giọt tình thương cũng vừa
Từ bao giờ đến bây giờ
Người thương người để nắng đùa trong cây
Bàn tay nắm lấy bàn tay
Nâng niu cuộc sống mỗi ngày người ơi”

ttnt: Đọc thơ ông ai cũng nhận ra sự tiếc nuối một quá khứ trong trẻo, sự bẽ bàng trước thực tế hiện nay, và mơ ước một tương lai tươi sáng. Tâm trạng ấy có giúp cho ông tự tại như hai câu thơ đậm tính thiền trong bài “Nghĩa” của ông: “Không có gì tạo thành tất cả / Tất cả đầy những không có gì.”?

TVP: Tôi không tiếc nuối một quá khứ trong trẻo, mà chỉ cố gắng góp phần kế thừa thành tựu và tránh khỏi thất bại của quá khứ. Tôi không bẽ bàng trước thực tế hiện nay, mà chỉ cố gắng góp phần phát huy những mảng sáng và loại bỏ những mảng tối trong thực tế hiện nay.
Nhận thức của tôi dần dần định hình lại là:

Sự sống rộng lớn hơn sự người (từng người và cả loài người). Chỉ xét riêng trên trái đất này, con người là một thành tố trọng yếu của sự sống, nhưng thành tố người bình đẳng và phải tương kính, tương thân, tương ái với các thành tố khác, như cát bụi, đất đá, nước lửa, cây cỏ, chim muông, ngày đêm, sáng tối, trước đây, bây giờ, sau này, sát kề, gần gũi, xa xôi… , mỗi thành tố đều có sự chủ động của mình góp phần tạo nên sự sống trên trái đất. Sai lầm rất nặng là chủ nghĩa “con người là trung tâm”, tệ hơn nữa, chủ nghĩa “con người là tạo hoá”.

Nhìn rộng ra trong vũ trụ này và trong tất cả các vũ trụ khác, những thành tố của sự sống không sao biết hết và kể xiết, sự sống thật sự vô cùng vô tận và bất diệt. Một ví dụ “nhỏ”: Trên Diêm Vương Tinh, theo thời gian ở trái đất, thì 60 năm mới có 1 lần mùa xuân.

Triết học Phật nhận ra rằng mọi thành tố của sự sống chỉ có sự tồn tại trong quan hệ với nhau, chứ không thể tách riêng và có sự tồn tại riêng, tự thân.

Trên đây là tôi đã xin được nói rõ hơn một chừng nào hai câu :
“Không có gì làm thành tất cả
Tất cả đầy những không có gì

Tiếp ngay sau hai câu ấy, là lời nguyện cầu trần thế:
“Biến hoá thế nào thì biến hoá
Đừng làm cô gái mất hàng mi”

ttnt: Trong những buổi cơm của ông với đồng sự nơi làm việc hoặc dự tiệc chiêu đãi cấp cao, tôi tình cờ chứng kiến, người phục vụ dọn cho ông một ít thức ăn riêng. Tôi thật sự ngạc nhiên khi biết, đó là những món chay. Xin phép được hỏi, ông ăn chay tự khi nào? ăn chay có làm phiền ông trong công việc? và tại sao ông ăn chay?

TVP: Trong bữa cơm gia đình cũng như bữa ăn nơi làm việc hoặc ở những buổi chiêu đãi, tôi vẫn ngồi chung mâm với mọi người, nhưng có vài món chay (nếu nhà bếp được báo trước là có tôi ăn chay). Những bữa ăn khác, nếu không có món chay thì tôi chọn những món như đậu phụ, lạc và rau, có sẵn trong buổi ăn chung. Trước những món ăn từ động vật, dù được chế biến giỏi, dù được nhiều người ăn khen ngon, tôi không có hứng thú thưởng thức, cũng không bao giờ thèm ăn.

Tôi ăn chay từ nhỏ, trong khi cha mẹ và các anh chị em tôi đều ăn mặn. Thật tình tôi cũng không hiểu vì sao. Sau Cách mạng Tháng tám 1945, vào bộ đội, đồng bào ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cho bộ đội cơm ăn với cá, thịt, tôi chỉ ăn với muối; sau đó thì có canh cà chua rừng nấu xuông, loại cà chua nhỏ như hạt mít, và các loại rau rừng. Đi công tác nước ngoài tôi cũng ăn chay, bạn bè quốc tế thường dò hỏi anh em trong đoàn “tôi theo đạo Phật hay là đạo Hồi?”. Tôi ăn chay không thấy thiếu, không thấy yếu, nhưng cũng không thấy khỏe thêm ra, chỉ thấy dễ chịu, thoải mái. Ăn chay, tôi chỉ ăn được những món tự nhiên, không ăn được món chay giả mặn.

Từ khi tôi đứng tuổi và hàng ngày vẫn phải làm việc nhiều, vợ tôi lo, nếu không có đạm động vật thì tôi sẽ không đủ sức và bà tập cho tôi ăn đạm động vật. Tôi xin vợ tôi, nếu làm đạm động vật thì hãy cố làm mất đi cảm giác thịt của loài vật, như món ruốc (thịt chà bông) thì ruốc gần như thành bột, và tôi chỉ ăn được đạm động vật do chính tay của vợ tôi làm. Thế nhưng, sức ăn đạm động vật của tôi rất kém, chỉ dùng được vài bũa, rồi ăn chay lại, cứ thế…

ttnt: Thưa ông, phải chăng chính Mẹ của ông đã góp phần không nhỏ làm nên một nhà chính trị được trí thức và quần chúng yêu quý? Và, Vợ của ông là người phụ nữ như thế nào mà trong một bài thơ của ông, bạn đọc thấy câu thơ “Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi” được lấy làm tên bài ?

TVP: Mẹ tôi là người đã truyền cho tôi tình yêu thương con người, sự khiêm cung nhún nhường và điều tâm niệm về cách sống: “Khi trong đời có một người phải nhận phận hẩm hiu, phải chịu thiệt thòi, đau đớn, thì hãy luôn luôn nhớ rằng người ấy là mình”. Mẹ tôi đã từ trần cách đây 68 năm. Trong cuộc sống hiện nay, tôi vẫn thường gặp và thầm nói chuyện với mẹ tôi, ban ngày và ban đêm.

Vợ tôi năm 2011 này đã 78 tuổi, cách đây 60 năm là học sinh của tôi ở trường sư phạm, từ 56 năm nay là người yêu, người vợ, người bạn tri kỷ thân nhất, người học sinh cũ, người em, người chị của tôi; từ nhiều năm nay là người mẹ của các con tôi, người bà của các cháu tôi. Vợ tôi luôn luôn là chỗ dựa tinh thần và hậu phương tình cảm của tôi.

ttnt: Từ thời “khi xưa ta bé” ông có hay theo Mẹ đến chùa? Khi đã là nhà chính trị ông có thường cùng bạn đời của mình viếng chùa?

TVP: Tôi học triết học Phật, nhưng không theo tôn giáo Phật.

Tôi có từng đến thăm một số chùa Phật giáo, một số nhà thờ Thiên chúa giáo, một số nhà thờ Hồi giáo, như đến thăm những kiến trúc và những cảnh quan đẹp, trang nghiêm, thanh tịnh. Tôi hoàn toàn không biết và không theo các nghi thức Phật giáo. Riêng tiếng mõ, nhất là vào hoàng hôn và đêm khuya, thì tôi thấy đánh theo bất cứ cách nào, miễn là chậm rãi, đều thấm thía và sâu xa triết học.
….
ttnt: Thay mặt VHPGVN chân thành cảm ơn ông về cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa này. Và, xin phép trân trọng chép tặng ông bài kệ đã giúp tôi giữ được sự an nhiên trước thời cuộc:

“Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời được an lành;
Tất cả các thời đều an lành.
Xin đức từ bi thường gia hộ”.

click để thu gọn phần tiểu sử ở trên

 

(1) Tiêu đề do chúng tôi đặt