Chân dung của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius
Nguyễn Lương Việt *) & Nguyễn Lương Dũng**)
*) Cử nhân Khảo cổ học (Đại Học Würzburg, Đức)
**) Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cơ học (Đại Học Bách Khoa Tp. HCM)
Khoảng hơn 2000 năm trước, hoàng đế đầu tiên của Rome (Gaius Julius Ceasar Augustus, còn được biết là Octavian, 27 TCN-17 SCN) là bậc thầy về tuyên truyền và truyền thông đại chúng, với phương tiện truyền đạt là các phương tiện truyền thông đại chúng cổ đại với các kênh truyền tải là hình ảnh, chữ viết và truyền miệng. Hình ảnh đóng vai trò rất quan trọng so với chữ viết vì trình độ biết chữ thời đó còn thấp. Hình ảnh thường được thể hiện dưới dạng tượng, tượng bán thân, phù điêu và tiền xu. Tất cả các hoàng đế La Mã đều sử dụng những hình thức đại diện này để công khai khả năng và phẩm chất cá nhân của mình với công chúng. Các hình ảnh miêu tả Marcus Aurelius rất đa dạng, ấn tượng và ý nghĩa, mặc dù chủ thể của bức tranh, Hoàng đế Marcus Aurelius, lại đóng vai trò kép và do đó rất khó để mô tả. Ông là triết gia duy nhất trên ngai vàng, với tư cách là hoàng đế La Mã, khao khát một đế chế thế giới. Với sự trợ giúp của hình ảnh, người ta có thể nghiên cứu cuộc đời và tư tưởng của Marcus Aurelius và hiểu được thái độ của ông trong thời gian trị vì. Bài viết này cố gắng tóm tắt lại các giai đoạn trong cuộc đời và triều đại của ông. Chân dung của Hoàng đế Marcus Aurelius được thảo luận chi tiết ở đây.
Marcus Aurelius sinh ngày 26 tháng 4 năm 121 sau Công nguyên tại Rome trong một gia đình quý tộc và giàu có. Ba năm sau, cha ông qua đời và Marcus Aurelius lớn lên một mình với mẹ. Aurelius được coi là một đứa trẻ nghiêm khắc và tự đặt ra cho mình những giới hạn ngay từ khi còn nhỏ. Vào tuổi 17, ông được Antoninus Pius, người có cha nuôi là Hoàng đế Hadrian (117-138 SCN), nhận làm con nuôi và được chỉ định là Hoàng đế tương lai của Đế chế La Mã. Năm 12 tuổi, ông đã nghiên cứu các tác phẩm của “người cha tinh thần” của mình, nhà triết học khắc kỷ (Stoizismus) và nô lệ Epictetus; Hai năm sau, ông mặc “toga virilis” (áo toga màu trắng nhạt của nam giới trưởng thanh) để thể hiện tình yêu của mình với triết học. Vào thời điểm đó, Hoàng đế Hadrian gọi Aurelius là “verrissimus” (người trung thực nhất) vì lòng trung thành đặc biệt của ông với 2 sự thật. Ngày 10 tháng 7 năm 138, Hadrian qua đời và Antoninus Pius kế vị làm Hoàng đế (138-161 SCN). Aurelius trở thành quan Chấp chính (quan chức cao cấp nhất lo việc hành chính và quân sự) lần đầu tiên vào năm 140 khi mới 18 tuổi và kết hôn với Faustina, con gái của Antoninus, năm năm sau đó. Giai đoạn này được coi là thời kỳ hạnh phúc của nhà triết gia. Năm 155, mẹ của Aurelius qua đời. Năm 161, sau cái chết của Antoninus, Aurelius trở thành Hoàng đế của Đế chế La Mã trong thời kỳ có nhiều chiến tranh và khủng hoảng kinh tế. Trong suốt thời gian trị vì của mình, ông phải đối phó với nhiều cuộc bất ổn (ở Anh) và kẻ thù của đế chế (người Parthia, Catti, Marcomanni, Quadi). Hơn nữa, hỏa hoạn, động đất, lũ lụt và bệnh dịch khiến triều đại của Marcus Aurelius trở nên khó khăn hơn. Người ta nói rằng ông là một người đàn ông hiền lành, có phần ốm yếu và mắc chứng trầm cảm. Ông được triết lý khắc kỷ giúp đỡ cả trong công việc lẫn cuộc sống, giúp ông có thể gánh vác được gánh nặng của chính phủ và giữ được sự bình tĩnh bên trong.
Ảnh 1 (trái). Marcus Aurel thời trẻ (Rome, Bảo tàng Capitoline)
Ảnh 2 (phải). Phù điêu: Lể nhận Marcus Aurelus và Lucius Versus làm con nuôi (Vienna, Bảo tàng lịch sử nghệ thuật)
Marcus Aurelius thời thơ ấu được phát họa bằng bức tượng bán thân tại Bảo tàng Capitoline ở Rome. Bức chân dung cho thấy khuôn mặt của Marcus Aurelius khi còn trẻ nhưng với vẻ mặt nghiêm túc – biểu cảm trên khuôn mặt có vẻ trầm ngâm. Cậu bé có mái tóc xoăn gọn gàng và mặc chiếc áo toga đơn giản. “Toga virilis” xác nhận ý chí của người mặc ở độ tuổi 14 muốn được công nhận là người trưởng thành. Antonius Pius đã chấp nhận ông vào giới linh mục dòng Salian. Ông chịu ảnh hưởng nhiều từ người thầy của mình, người luôn đấu tranh cho sự trung lập và không bao giờ cá cược, về những nguyên tắc trong thái độ và suy nghĩ của mình. Các nhà theo chù nghĩa khắc kỷ, thầy của Marcus Aurelius, có thể đã ủng hộ mạnh mẽ khuynh hướng khắc kỷ của ông, điều mà ông được cho là đã thể hiện khi mới mười hai tuổi, khi ông khoác lên mình tấm áo của một nhà triết học. Tư tưởng khắc kỷ của ông bắt đầu từ rất sớm và sau đó được phản ánh trong cuốn nhật ký sâu lắng, tác phẩm “Suy tưởng” (Selbstbetrachtung/Meditations) viết bằng tiếng Hy Lạp, của một triết gia và hoàng đế bất đắc dĩ.
Triều đại đế quốc sau khi Marcus Aurelius và Lucius Versus lên ngôi vào năm 138 đã được mô tả trên bức phù điêu của cái gọi là Tượng đài Parthia ở Ephenus, hiện đang được trưng bày tại bảo tàng về lịch sử nghệ thuật ở Vienna, Áo. Hadrian ở giữa và Antonius đứng vây quanh Lucius nhỏ bé, trong khi Marc đứng ở rìa bên trái trong lễ nhận 2 người làm con nuôi. Thật không may, bức phù điêu đã bị hư hỏng một phần nên không thể nhận ra các nét mặt thời trẻ của Marcus Aurelius. Khi Hadrian qua đời, Marcus Aurelius mới 17 tuổi. Ông chuyển vào cung điện hoàng gia cùng với Antoninus Pius. Antoninus hứa hôn Marcus Aurelius với con gái mình là Faustina. Điều này rõ ràng đã đưa Marcus Aurelius lên vị trí đầu tiên trong danh sách kế vị ngai vàng. Năm 139, Marcus Aurelius, lúc 18 tuổi, được phong làm Caesar (danh hiệu hoàng tử) của hệ thống chính quyền đế chế La Mã lúc bấy giờ. Cùng năm đó, ông đã thành lập văn phòng quan Chấp chính đầu tiên. Ông trở thành Hoàng đế của Đế chế La Mã ở tuổi 40 vào năm 161 sau Công nguyên.
Marcus Aurelius rất ý thức về sự phát triển cuộc sống và sự nghiệp của mình thông qua sự hỗ trợ của tổ tiên. Trong cuốn sách đầu tiên của tác phẩm “Meditations” (Thiền định), Marcus Aurelius đã cảm ơn người thân, bạn bè và các thầy vì đã góp phần vào cuộc đời ông. Ông học được nhiều đức tính tốt từ họ: sự thanh thản từ người ông quý tộc Verus, tính khiêm tốn từ người cha mất sớm của ông. Người mẹ là người kính Chúa, tốt bụng, hào phóng và luôn sống giản dị. Ông cũng nợ nhiều nguyên tắc từ người thầy của mình. Marcus Aurelius rất coi trọng cha nuôi của mình vì Antoninus Pius nổi tiếng với sự dịu dàng và kiên định trong việc đưa ra những lập trường được cân nhắc kỹ lưỡng. Cuối cùng, Marcus Aurelius ca ngợi các vị thần vì đã lựa chọn tổ tiên, họ hàng và bạn đời một cách xuất sắc, cũng như vì sức khỏe và hạnh phúc mà họ đã mang lại cho ông.
Dưới thời trị vì của Marcus Aurelius, đế chế La Mã đã thịnh vượng. Nó được đặc trưng bởi sự ổn định bên trong và bên ngoài. Marcus Aurelius là một trong những vị hoàng đế xuất phát từ con nuôi của hoàng đế chứ không phải là con đẻ. Thể chế này trải qua một giai đoạn nhất định trong thời kỳ đế quốc La Mã, trong đó người kế thừa quyền cai trị được xác định bằng cách thông qua việc nhận con nuôi.
Tượng cưỡi ngựa của Marcus Aurelius, hiện có thể được nhìn thấy tại Rome trên quảng trường Piazza del Campidolo, chỉ là bản sao của bức tượng cưỡi ngựa từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, nhưng bản sao này không hề thua kém bản gốc về mặt hiệu ứng. Bức tượng đồng nguyên bản được lưu giữ trong các phòng gần đó của Bảo tàng Capitoline. Bức tượng cưỡi ngựa lớn hơn người thật (kích thước 424 x 384 cm) khắc họa Marcus Aurelius trong tư thế ngồi thoải mái. Đầu hơi nghiêng về bên phải, hoàng đế nhìn thẳng về phía trước với vẻ mặt bình tĩnh, gần như không có biểu cảm trên khuôn mặt; nó để lộ trán phồng, lông mày nhướng lên, mí mắt che một nửa và quầng thâm dưới mắt. Khóe miệng hơi hướng xuống dưới được làm nổi bật bởi những lọn râu xoăn tươi tắn. Tóc được tạo thành những lọn tóc xoăn hình lưỡi liềm dày và khá ngắn ở cổ. Người cưỡi ngựa mặc chiếc turnika (áo quần của người La mã) ngắn với thắt lưng vải và quanh thân hình mảnh khảnh một chiếc áo khoác dài được cố định bằng một chiếc trâm cài mảnh khảnh và đôi bốt dưới chân. Marcus Aurelius giơ cánh tay phải về phía trước để chào và mở lòng bàn tay hướng xuống dưới. Tư thế adlocutio hay lời chào này là một yếu tố của ngôn ngữ tượng trưng và nghệ thuật của thời kỳ đế quốc. Do đặc điểm thiết kế của người cưỡi ngựa, anh ta trông rất thoải mái và bất động, vì vậy con ngựa dường như đang ở tư thế ngược lại. Loài vật này rất khỏe và toàn bộ cơ thể được bao phủ bởi cơ và gân. Tương tự như đầu của người cưỡi ngựa, đầu của con ngựa cũng được kéo nhẹ về phía bên phải của cơ thể.
Tác phẩm điêu khắc lớn được chế tác khéo léo này trông rất uy nghi và trang nhã. Hoàng đế tỏ ra thông thái và hướng dẫn, nhưng không hề tỏ ra hạ mình. Kích thước của người cưỡi ngựa giúp toàn thể người La Mã biết đến hoàng đế. Marcus Aurelius vừa mới sống sót sau Chiến tranh Parthia lần thứ nhất và cuộc khủng hoảng trên sông Danube, có lẽ điều này có thể hỗ trợ việc xác định niên đại của bức tượng – người ta tin rằng bức tượng được dựng lên vào khoảng năm 169 đến 179 sau Công nguyên.

Ảnh 3. Bản gốc tượng cưỡi ngựa của Marcus Aurelius (Rome, Bảo tàng Capitoline)
Bức tượng cưỡi ngựa mô tả Hoàng đế Marcus Aurelius đang chiến thắng quân man rợ bị đánh bại. Tuy nhiên, vị hoàng đế này không được miêu tả là người chiến thắng. Mặc dù hoàng đế trông đẹp như tranh vẽ và trang nghiêm, nhưng nét mặt của ông không hề biểu lộ chút vui mừng hay tự hào nào của một vị tướng. Nhưng ông có vẻ cân bằng, điềm tĩnh và chu đáo, với một chút khiêm tốn và dè dặt. Bức tượng danh dự này thể hiện chính xác tính cách của hoàng đế trong thời đế quốc La Mã nhưng mang tư duy triết học. Sự tham gia của ông vào chủ nghĩa khắc kỷ được thể hiện rõ qua bức chân dung Hoàng đế Marcus Aurelius này. Đặc biệt, sự thông thạo và lòng dũng cảm được thể hiện qua bức tượng cưỡi ngựa này. Do đó, bức tượng được làm vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, trong thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật. Thế kỷ hoàng kim của Đế chế La Mã đã chứng tỏ là một thế kỷ tích cực vì nhiều lý do, mặc dù có rất nhiều cuộc khủng hoảng cần phải vượt qua. Triều đại của Marcus Aurelius kéo dài đúng vào thế kỷ hoàng kim này.
Các nguồn tài liệu từ thời Trung Cổ kể rằng có một hình người man rợ đang quỳ dưới con ngựa, đó chính là cách bức tượng cưỡi ngựa này được tạo ra. Đó sẽ là thông tin về Chiến tranh Marcomannic (166-180 sau Công nguyên), có thể được tìm thấy tại Bảo tàng Capitoline ở Rome. Bức phù điêu mô tả Hoàng đế Marcus Aurelius mặc áo giáp quân đội trên lưng ngựa và các thủ lĩnh người Đức đang quỳ trước mặt ông để cầu xin lòng thương xót. Các nét mặt cho thấy một vị tướng ôn hòa, hiểu biết và thông cảm với kẻ thù của mình. Cuối cùng, ông ân xá cho các tù nhân.
Ảnh 4 (trái/trên). Marcus Aurelius dậng lễ vật trước đền thần Jupiter tại điện Capitole (Phù điêu, Rome, Bảo tàng Capitoline)
Ảnh 5 (phải/dưới). Chiến tranh Markommanen: Marcus Aurelius tha thủ lãnh của Germanen (Rome, Bảo tàng Capitoline)
Tượng bán thân của hoàng đế là một dạng chân dung mới chưa từng được biết đến trong khu vực văn hóa Hy Lạp. Khoảng năm 30 trước Công nguyên dưới thời Hoàng đế Augustus, tượng bán thân của hoàng đế đã phát triển thành một dạng chân dung mới: các cấu trúc bằng đá cẩm thạch được chế tác ba chiều cho thấy phần đầu và một phần thân trên của hoàng đế. Ví dụ, chúng tiết lộ kiểu tóc, trang phục và tư thế của các hoàng đế Đế chế La Mã. Hình ảnh và bối cảnh cho thấy đặc điểm và khả năng của những nhân vật lịch sử này. Các hoàng đế trông giống như hình ảnh trên tượng bán thân; quần áo, râu và kiểu tóc chắc chắn có ý nghĩa tượng trưng, nhưng đồng thời chúng cũng tương ứng với những xu hướng nhất định. Tất cả các hoàng đế của Đế chế La Mã đều được miêu tả bằng những bức chân dung bằng đá cẩm thạch này, được thực hiện trong hoặc sau thời kỳ trị vì của họ. Bức tượng bán thân cho thấy hoàng đế tràn đầy năng lượng và sức khỏe với tư cách là một vị tướng và người cai trị đế chế. Họ thông báo cho toàn thể công dân La Mã về hoàng đế và do đó, người dân có thể gặp hoàng đế thường xuyên hơn, cả ở nơi công cộng và riêng tư. ngưỡng mộ. Người thân của hoàng đế cũng có những bức tượng bán thân như vậy, vì hoàng đế và gia đình ông là hình mẫu gắn kết cho mọi lĩnh vực của cuộc sống, về các giá trị đạo đức cũng như về thời trang tóc.

Ảnh 6 trên. Tượng bán thân của Marc Aurel (Vienna, Bảo tàng lịch sử nghệ thuật)
Ảnh 7 dưới. Marcus Aurelius trong quân phục (Paris, Louvre)
Tượng bán thân của hoàng đế Marcus Aurelius, hiện được trưng bày tại bảo tàng về lịch sử nghệ thuật ở Vienna, là một trong những bức chân dung nổi tiếng của hoàng đế thuộc loại thứ ba từ giai đoạn 160-180 sau Công nguyên. Nó mang những nét đặc trưng trên khuôn mặt của Marcus Aurelius. Ông ta có kiểu tóc xoăn đặc trưng và bộ râu rậm rạp, với bộ ria mép mọc dài quá môi trên, trong khi một nhóm râu nhỏ mọc dưới miệng. Một đặc điểm nữa của Marcus Aurelius là khuôn mặt dưới dài và trên hết là đôi mắt to, lồi với mí mắt trên sụp xuống và ánh mắt hướng về phía xa. Giống như tất cả người La Mã, ông mặc một chiếc áo toga trên người và giống như các quan chức cấp cao của Đế chế La Mã chiếc áo toga này có một chiếc trâm cài ở vai phải. Gương mặt điềm tĩnh, thanh thản thể hiện tính cách có giáo dục. Bức chân dung phản ánh mối quan tâm triết học của Marcus Aurelius đối với triết học Khắc kỷ. Cuộc đời của Marcus Aurelius gắn liền với mối quan tâm đến Đế chế La Mã và sự chuyển hướng sang chủ nhĩa Khắc kỷ.
Trong một phần phù điêu được trưng bày tại Bảo tàng Capitoline ở Rome, nhà triết học hoàng đế được miêu tả đang truyền bá các ý tưởng triết học của mình trước công chúng. Gương mặt uyên bác của ông cho thấy vẻ thanh thản đặc trưng. Tay phải của ông cầm một cuộn giấy, có lẽ là ghi chép về triết lý sống của ông. Những ghi chú này là những bài tập tâm linh nhằm duy trì ý thức phù hợp với chủ nghĩa Khắc kỷ. Nhật ký của ông là di sản quan trọng cuối cùng của trường phái triết học Khắc kỷ trẻ. Chúng được tạo ra vào cuối triều đại của Marcus Aurelius tại các trại lính dã chiến ở biên giới phía bắc của Đế chế La Mã.
Ảnh 8 trái/trên. Nhà triết học hoàng đế trước công chúng (Wikimedia Commons)
Ảnh 9. Marc Aurelius lúc tuổi già (Nhà xuấ bản Archiv Diogenes)
Hoàng đế mặc áo giáp quân đội cũng được miêu tả trong một bức tượng được dựng ở Louvre, Paris, giống như tượng của tất cả các hoàng đế La Mã khác trước và sau ông. Tuy nhiên, nét mặt của ông lại thanh thản và tĩnh lặng, trái ngược với những vị hoàng đế khác thích tỏ ra chiến thắng và tràn đầy năng lượng. Ông cầm một chiếc pugio, một loại dao găm ở La Mã cổ đại. Cánh tay phải ở tư thế phát biểu. Ông mặc một bộ áo giáp có hình Gorgoneion trên ngực. Gorgoneion là đầu của Medusa (con gái của thần biển), một hình ảnh kinh dị đáng sợ theo thần thoại Hy Lạp. Marcus Aurelius do đó đã trở thành một triết gia và hoàng đế trái với ý muốn của mình, bị buộc phải chiến đấu chống lại các mối đe dọa ở biên giới của đế chế với tư cách là tổng tư lệnh quân đội La Mã. Trong 20 năm trị vì của ông, chỉ có bốn năm là hòa bình, vì vậy nhà triết học này phải tiến hành chiến tranh, và ông vẫn là hoàng đế vĩ đại cuối cùng có khả năng mở rộng đế chế trong nhiều năm tiếp theo. “Hãy cẩn thận kẻo trở thành hoàng đế,” với suy nghĩ về đặc điểm của các hoàng đế La Mã trước mắt, ông muốn tránh việc quay lưng lại với dân chúng, không để mình bị phân tâm khỏi chính quyền bởi những đam mê, hoặc thậm chí bị cuốn theo những hành động tàn bạo. Ông được triết lý Khắc kỷ giúp đỡ cả trong công việc lẫn cuộc sống, giúp ông có thể gánh vác được gánh nặng của chính phủ và giữ được sự bình tĩnh bên trong.
Marcus Aurelius đã đặt ra những ưu tiên mới, đặc biệt là trong chính sách đối nội, ví dụ như trong luật pháp và học thuyết pháp lý nhằm giảm bớt số phận của những người yếu thế trong xã hội La Mã thời bấy giờ. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến nô lệ và phụ nữ. Ông muốn cải thiện tình hình của họ và hơn một nửa số luật của ông nhằm mục đích cải thiện vị thế của họ. Trong số những việc khác, ông đã thành công khi đối mặt với những thách thức của trận lụt nghiêm trọng trên sông Tiber và phải chiến đấu với đại dịch Cái chết đen Antonine. Sau một thời gian dài hòa bình, các cuộc giao tranh buộc ông phải sẵn sàng trở lại trên nhiều mặt trận ở biên giới đế chế và hành động chống lại những kẻ xâm lược. Phần phía đông của đế chế đặc biệt bị đe dọa bởi người Parthia và khu vực sông Danube bị nhiều bộ tộc người Đức khác nhau đe dọa. Trại dã chiến là nơi cư trú chính của ông trong thập kỷ cuối đời.
Mối quan hệ giữa hoàng đế và Kitô giáo có ba phần. Đầu tiên, có hai cuộc đàn áp những người theo đạo Thiên chúa trong thời kỳ trị vì của ông, thứ hai là việc đánh giá giáo lý Thiên chúa giáo là của phái Khắc kỷ và cuối cùng là việc những người theo đạo Thiên chúa chiếm dụng Marcus Aurelius. Hoàng đế đã thực hiện hai cuộc đàn áp lớn đối với những người theo đạo Thiên chúa. Lần đầu tiên diễn ra vào năm 167, lần thứ hai là vụ thảm sát người theo đạo Thiên chúa ở Lyon mười năm sau đó. Sự đàn áp những người theo đạo Thiên chúa có lẽ chủ yếu là do những hạn chế về chính trị, nhưng cũng do thái độ phản đối cá nhân của hoàng đế đối với giáo phái phương Đông. Về mặt chính trị, họ không công nhận hoàng đế La Mã là chủ nhân của mình. Hơn nữa, đối với ông không có sự tồn tại ở thế giới bên kia; nhà triết học đã bối rối trước mối đe dọa của Kitô giáo về ngọn lửa địa ngục. Đối với ông, góc nhìn thứ hai về thế giới bên kia là sự đe dọa bất công đối với mọi người. Ngoài ra, những người theo đạo Thiên chúa coi thường lý tưởng về trí tuệ và khoa học của Marcus Aurelius. Họ dựa vào những người thiếu học thức để thực hiện sứ mệnh của mình, có lẽ vì những người có học thức ở Rome không để ý đến họ, những người coi lời hứa cứu rỗi và đe dọa là tầm thường. Bất chấp mọi điều, các giáo phụ sau này như Augustine (một học giả của nhà thờ) đã coi hoàng đế là của riêng mình. Họ mô tả cuộc đời của Marcus Aurelius là đáng noi theo. Kết luận này xuất phát từ một số điểm tương đồng giữa giáo lý của phái Khắc kỷ và Cơ đốc giáo về nguồn gốc tâm linh của họ. Marcus Aurelius tiếp tục tôn vinh các vị thần Hy Lạp và La Mã cổ đại. Giống như tất cả các hoàng đế khác, ông coi cha của các vị thần, thần Jupiter, là vị thần bảo trợ cho các chiến thắng trong các chiến dịch quân sự. Sau những chiến dịch thắng lợi chống lại người Đức Marcomani, ông ăn mừng chiến thắng ở Rome, dâng lễ vật tạ ơn trước Đền thờ thần Jupiter ở Điện Capitol.
Bức phù điêu tại Bảo tàng Capitoline ở Rome cho thấy Marcus Aurelius đang thực hiện nghi lễ hiến tế cho thần Jupiter của Capitoline. Nét mặt của ông cho thấy sự chú ý và lòng tận tụy hoàn toàn với quá trình hiến tế và với các vị thần. Hoàng đế mặc áo toga và trùm đầu. Chiếc áo choàng trùm đầu là một phần quan trọng trong các nghi lễ hiến tế ở thế giới La Mã – chỉ những linh mục quan trọng nhất mới đội chiếc áo toga trên đầu trong suốt quá trình rước lễ. Princeps là đại diện cao nhất của Rome trước các vị thần và do đó có thể đại diện cho đức tính ngoan đạo. Bên cạnh hoàng đế là Camillus trẻ tuổi với acerra, một hộp đựng hương. Linh mục nhà nước (Flamen Dialis), người đứng sau Marcus Aurelius, luôn phải xuất hiện với mũ miện nghi lễ (apex). Người bán thịt Tibicen đóng vai trò là người hầu tế lễ cầm một chiếc rìu, với con bò đực làm vật tế lễ ngay phía sau. Cảnh hiến tế thần Jupiter được thực hiện trước đền thờ thần Jupiter-Optimus-Maximus.
Hoàng đế lâm bệnh vào đầu năm 180, lâm bệnh như thường lệ. Một bức chân dung, xem trong kho lưu trữ của Diogenes Verlag, cho thấy Marcus Aurelius đã già với nét mặt mệt mỏi và ốm yếu. Nhưng ông nhìn với sự thanh thản trong tâm hồn, bởi vì theo triết lý Khắc kỷ của ông, cái chết chỉ là một sự thay đổi trong cuộc sống, không phải là điều gì khủng khiếp.
Marcus Aurelius qua đời vì bệnh dịch hạch vào ngày 17 tháng 3 năm 180 tại Vindobona, ngày nay là Vienna. Bệnh dịch xuất hiện vào khoảng năm 180 sau Công nguyên, có thể do quân đội của Lucius Verus mang đến từ phương Đông và gây ra vô số cái chết. Cuộc đời của Marcus Aurelius, đặc biệt là thời kỳ đế quốc của ông, được đánh dấu bằng nhiều sự kiện của số phận và những thất vọng cá nhân (cái chết sớm của hai người con, âm mưu của vị tướng Cassius), những điều này cũng được đề cập trong tác phẩm Suy tưởng của ông. Điều góp phần vào sự suy yếu của quyền lực La Mã là việc sau này Marc đã bổ nhiệm con trai mình là Commodus, một kẻ phóng đãng liều lĩnh, làm đồng hoàng đế (177-192 SCN) và người kế vị. Cho đến ngày nay, với nhiều người, sự sắp xếp kế vị theo triều đại hoàn toàn không phù hợp với những hành động thường thấy của vị hoàng đế triết gia lý tưởng. Có lẽ những sự kiện xung quanh cuộc nổi loạn của Avidius Cassius là yếu tố quyết định. Sau khi qua đời, tro cốt của Marcus Aurelius được chôn trong lăng mộ của Hoàng đế Hadrian. Để vinh danh ông, Viện nguyên lão Rome đã dựng lên một cột danh dự (Cột Marcus Aurelius) vào khoảng 176-193 SCN. Cột này hiện nằm tại Quảng trường Colonna ở Rome. Ngoài ra, ông còn được phong tặng danh hiệu Divus (Thánh) thông qua sắc lệnh của Thượng viện và nghi lễ tấn phong công khai (conscratio) trong lễ tang cấp nhà nước. Sự phong thánh này dựa trên niềm tin vào sự thăng thiên của hoàng đế lên thiên đàng. Hoàng đế cưỡi cỗ xe bốn ngựa có cánh lên thiên đường hoặc được Chúa tể thời đại dưới hình dạng một vị thần trẻ có cánh dẫn đường.
Ảnh 10 (trái/trên). Cột Marc Aurelius (Rome, Piazza Colonna) Ảnh 11. Thánh Marcus Aurelius in trên đồng đồng Denar dưới thời Commodus (Nhà sưu tầm Kampmann Nr. 37.263.6)
Commodus có một đồng tiền hiến dâng nhân dịp lễ thánh hiến của Marcus Aurelius. Hình ảnh của đồng dinar này cho thấy Hoàng đế Marcus Aurelius dưới hình dạng Divus ở mặt trước và giàn thiêu xác ở mặt sau (Kampmann 37.263).
Những đồng tiền La Mã kỷ niệm ngày lễ thánh hiến luôn khắc dòng chữ Divus hoặc Diva ở mặt có chân dung. Mặt sau của những đồng tiền thánh hiến này thường có hình đại bàng hoặc giàn thiêu xác bốn tầng dành cho Divus. Những đồng tiền thánh hiến có in hình diva cũng có những họa tiết khác ở mặt sau, chẳng hạn như hình con công. Chúng biểu thị sự thăng thiên của hoàng đế lên thiên đàng.
Bản thân Augustus cũng có một bức tượng bán thân của hoàng đế với khuôn mặt tràn đầy năng lượng và sức sống. Một bức tượng quan trọng khác là Augustus Capite Velato. Bức tượng này mô tả Augustus đội khăn trùm đầu giống như áo choàng togatus theo kiểu Capite Velato (đầu choàng khăn khi hiến tế). Loại tượng này đóng vai trò trung gian giữa tượng thờ và tượng đại diện cho hoàng đế. Điều này cho thấy Augustus đã đảm nhận danh hiệu pontifex maximus (giáo hoàng) suốt đời và được tuyên bố là cha đẻ của tổ quốc. Ngược lại, Marcus Aurelius là một nhân vật thú vị với vai trò kép là hoàng đế và triết gia. Sự kết hợp này được coi là mâu thuẫn, do đó rất khó để mô tả hình ảnh chân dung. Tuy nhiên, các hình ảnh mô tả Marcus Aurelius lại thành công và luôn cho công chúng thấy một nhân vật lịch sử điềm tĩnh và có trình độ học vấn cao. Tượng cưỡi ngựa theo truyền thống biểu tượng quân sự về vị hoàng đế chiến thắng đánh bại kẻ thù của Đế chế La Mã trên lưng ngựa. Bức chân dung mang những nét đặc trưng của hoàng đế Marcus Aurelius, tương ứng với một khía cạnh khác của sự tự thể hiện và phản ánh mối quan tâm triết học của Marcus Aurelius, mà ông lấy đó làm cơ sở cho hành động của mình. Các bức phù điêu luôn thể hiện một vị hoàng đế hiểu biết và có vẻ ngoài thanh bình, nhưng vẫn rất ngoan đạo và tận tụy. Từ hình ảnh các bức tượng, tượng bán thân, phù điêu và tiền xu, người ta có thể mô tả chân dung của Hoàng đế Marcus Aurelius và giải mã cuộc đời cũng như thái độ triết học của ông.
Tài liệu tham khảo:
1/ Marc Aurel, Selbstbetrachtungen, Übers. und Hrsg. von G. Krapinger, Reclam Verlag, 2019.
2/ M. Bergmann, Marc Aurel, Liebieghaus Monographien 2, 1978.
3/ A. Demandt, Marc Aurel: der Kaiser und seine Welt, Verlag CH Beck, München 2019.
4/ K. Fittschen und P. Zanker, Katalog der römischen Porträts in den Capitolinischen Museen und den anderen kommunalen Sammlungen der Stadt Rom. I. Kaiser und Prinzenbildnisse, 1994.
5/ J. Fündling, Marc Aurel, WBG Verlag, Darmstadt 2008.
6/ V. Grieb (Hrsg.), Marc Aurel – Wege zu seiner Herrschaft, Sonderdruck, Computus Druck Satz & Verlag, Gutenberg 2017.
7/ C. Horst, Marc Aurel, Historia, Band 225, Franz Steiner Verlag, Stuttgart 2013.
8/ A. Rudow, Die römischen Kaiser, Regionalia Verlag, Daun 2018.
9/ P. Zanker, Die römische Kunst, C. H. Beck Verlag, München 2015.
10/ P. Zanker, Augustus und die Macht der Bilder, C.H. Beck Verlag, München 2009.
11/ Wikipedia – Die freie Enzyklopädie, Mark Aurel, 2006.