“KHÔNG THỂ YÊU NƯỚC TRONG SỰ VÔ MINH”
Nguyễn Xuân Xanh
Lời nói đầu. Tôi đăng lại bài này từ báo Tuổi Trẻ để cho đầy đủ và đọc giả có thể tìm thấy dễ dàng trên trang mạng này. Bài được đăng ngày 25.3. 2012:
https://tuoitre.vn/khong-the-yeu-nuoc-trong-su-vo-minh-483903.htm
Nếu khẩu hiệu khai sáng của Immanuel Kant là Hãy dám biết, sapere aude, thì giờ đây quả thật chúng ta lại càng không thể yêu nước trong sự vô minh. Cuối cùng chúng ta cũng đến chỗ của Kant: Hãy biết học hỏi và tìm khai sáng cho chính mình và cho đất nước. Không thể xây dựng đất nước mà không có tri thức. Nếu Wilhelm von Humboldt quan niệm “bất cứ ai sống với triết học và nghệ thuật, người đó gần gũi với tổ quốc hơn tất cả những người khác”, thì chúng ta cũng có thể nói: bất cứ ai sống với sự khao khát học hỏi những tri thức khai sáng hướng tới cuộc chấn hưng đất nước và xây dựng con người mới, như những nhà cải cách Nhật Bản Minh Trị đã từng làm, người đó sống rất gần gũi với tổ quốc. Nếu nhà khai sáng Fukuzawa Yukichi đã từng nói, chúng ta không còn thì giờ để phung phí cho những chuyện “vô bổ”, không hợp thời, đúng lúc, hãy tập trung sức lực vào cái học hiện đại của phương Tây để nhanh chóng xây dựng một quốc gia mới mạnh mẽ ngang bằng với họ, bởi kẻ thù đang đứng trước cửa ngõ và chĩa súng, thì điều đó hôm nay lại càng đúng cho Việt Nam gấp nhiều lần. Đến nay, chúng ta vẫn còn thiếu nền tảng khai sáng của Nhật Bản.
Xin đọc thêm: Hiện tượng Do Thái – Một lý giải
TT – Người Nhật nổi tiếng trong lịch sử là dân tộc đọc sách vào bậc nhất thế giới. Quyển Self-help (Tự lo) của Samuel Smiles từng là best-seller tại Anh, Mỹ, bán được 250.000 quyển cuối thế kỷ 19, nhưng khi được dịch sang tiếng Nhật đầu thời Minh Trị (1868) bán đến 1 triệu bản!
Các bạn trẻ tham gia thi trắc nghiệm tại một gian hàng ở Hội sách TP.HCM 2012 – Ảnh: TTO |
Một con số thật “khủng”, vì dân số Nhật Bản lúc đó chỉ khoảng 30 triệu người. Nhiều quyển sách khác cũng được bán với con số tương tự. Sự tò mò của người Nhật có thể nói là vô hạn. Thời Minh Trị, công ty TNHH ra đời đầu tiên là Công ty nhập khẩu và kinh doanh sách Maruzen. Sách là nền tảng tri thức để chấn hưng đất nước.
Văn hóa đọc của Nhật Bản không phải bỗng dưng bùng nổ vào thời Minh Trị khi đất nước được mở cửa hướng về phương Tây, mà có gốc rễ sâu xa từ thời Tokugawa năm 1600-1868, từ lúc dân tộc chỉ có văn hóa võ sĩ trên chiến trường, từ lúc thầy tu khỏe mạnh cũng muốn ra trận để thi thố tài năng đi tìm hạnh phúc. Cách đây 300 năm, Nhật Bản đã có những con số “khủng” về giáo dục và văn hóa đọc, hai cái gắn liền nhau.
Vì sao có những con số khủng về giáo dục và văn hóa đọc của một dân tộc võ sĩ? Sự học tại Nhật Bản trước năm 1600 là độc quyền của giới quý tộc và tăng lữ, nhưng đến thời Tokugawa trở thành công việc của cả nước. Đến năm 1615, tướng quân Tokugawa Ieyasu, sau khi bình định được gần 300 bang (han), thiết lập nên một thể chế chính trị gần như liên bang, đã truyền lệnh cho tất cả đại danh đứng đầu các bang, daimyō, và cho võ sĩ, samurai rằng (điều 1): “bun bên tay trái, bu bên tay phải”. Bun là văn, sự học, là cây bút, còn bu là nghệ thuật chiến tranh, từ đó bushi là võ sĩ, bushido là võ sĩ đạo. Tức “quyển sách bên tay trái, thanh gươm bên tay phải”. Và văn đi trước võ để có thể trị nước lâu bền. Nhật Bản cũng có bậc thang “sĩ, nông, công, thương”, nhưng ở đây sĩ không phải là kẻ sĩ, mà là võ sĩ.
Mệnh lệnh trên có tác dụng của một “big bang” của văn hóa học và đọc sách. Các daimyō phải học văn hóa, các loại khoa học và nghệ thuật quản lý. Một daimyō có học phải đọc sách hằng ngày. Để học, họ lập ra các thư viện khắp các bang. Nhật Bản mỗi thời đều có những thư viện nổi tiếng, nhưng vào thời Tokugawa, Nhật có nhiều thư viện nhất.
Một cái “khủng” nữa. Tokugawa là chế độ tự đóng kín, “tỏa quốc” (sakoku) suốt 260 năm, sau khi họ đuổi hết người truyền giáo phương Tây năm 1640 (Việt Nam 1630), chỉ chừa một cảng nhỏ Dejima duy nhất ở Nagasaki thông thương với Hà Lan, và họ kiểm soát nghiêm ngặt việc nhập khẩu sách để tránh sự xâm nhập của Kitô giáo. Nhưng trong hai thế kỷ, giới trí thức Nhật Bản đã làm được một cuộc dịch thuật vĩ đại, gọi là “Lan học” (rangaku), để biết rõ khoa học, công nghệ phương Tây. Đó là bình minh của nhận thức, giúp Minh Trị nhanh chóng thành công.
Một sự lặp lại kỳ thú của lịch sử: châu Âu từng có cuộc dịch thuật vĩ đại thế kỷ 11 và 12 lúc đại học châu Âu ra đời để làm nền tảng phát triển khoa học và văn hóa, thì tương tự ở phương Đông, Nhật Bản cũng đã có cuộc dịch thuật vĩ đại của mình trong hai thế kỷ thời đóng cửa, giúp chuyển hệ hình tư duy kiểu phong kiến Trung Hoa sang hệ hình khoa học hiện đại phương Tây. Cuộc dịch thuật là khó nhọc và không kém phần nguy hiểm, nhưng trí thức Nhật Bản đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ không thể yêu nước trong sự vô minh, như bác sĩ nổi tiếng Siguta Gempaku (1733-1817) nói, người tạo cú hích cho “Lan học” thành công.
Đọc sách không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà là việc làm của lòng yêu nước để phát triển đất nước và hoàn thiện con người. Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hóa có ý thức. 1.000 năm trước họ đã học Trung Hoa. 1.000 năm sau họ học phương Tây. Họ không sợ học của kẻ thù, chỉ sợ vô minh vì không học. Họ học sớm và học nhiều hơn Trung Hoa nhưng vẫn giữ được bản sắc, tổng hợp được văn hóa Đông Tây và Nhật Bản đã thành công.