SHIBUSAWA EIICHI
DOANH NHÂN LẬP QUỐC VĨ ĐẠI THỜI
MINH TRỊ DUY TÂN
Lời nói đầu. Dưới đây là hai bài giới thiệu, một của GS Trần Văn Thọ, một của tôi, cho quyển Tự truyện có tên Vũ Dạ Đàm (Nói chuyện trong đêm mưa) của Shibusawa Eiichi, một trong những nhà lập quốc vĩ đại của Nhật Bản Minh Trị. Nếu Fukuzawa Yukichi truyền bá văn minh khai sáng vào Nhật Bản để thức tỉnh dân tộc, thì Shibusawa có thể nói là một trong những người dựng nước qua việc xây dựng nền kinh tế theo mô hình phương Tây tại Nhật Bản dựa trên tri thức quản lý và công nghệ. Một quốc gia không chỉ thành công bằng những ý tưởng khai sáng thuần túy để có một quốc gia mới phú cường, mà còn bằng muôn vàn đóng góp của những người con thân yêu của đất nước gieo những hạt giống mới của một nền sản xuất hiện đại dựa trên tri thức, công nghệ, trên mảnh đất khai sáng đó. Nước Đức thế kỷ XIX cũng thế, không chỉ có các nhà tư tưởng lớn như Kant mà còn có cả một thiên hà các nhà công nghiệp vĩ đại như Krupp. Và hơn nửa thế kỷ sau, Nhật Bản cũng thế. Đó là quỹ đạo của sự phát triển của các quốc gia đi sau. Đọc Vũ Dạ Đàm chúng ta thấy một Nước Nhật mới manh nha thế nào từ buổi đầu của cuộc Duy Tân trên một mảnh đất trống không. Chỉ có tri thức còn phôi thai học được từ phương Tây, có lòng yêu nước nồng nàn, đạo đức truyền thống kiên định, ý chí và sự đoàn kết cao độ. Shibusawa, cũng như các nhà cải cách khác, không lập ra một lý thuyết mới nào cả, mà nhanh chóng áp dụng nền kinh tế phương Tây vào Nhật Bản. Muốn lấy lại sự bình đẳng đã mất đi trong các hiệp ước thương mại bất bình đẳng với phương Tây, và tránh số phận của Việt Nam hay Trung Hoa, thì đơn giản phải nhanh chóng xây dựng một quốc gia hiện đại như phương Tây để có sức mạnh kinh tế ngang bằng để được công nhận. Để làm điều đó, Shibusawa đã giúp khởi nghiệp – theo đúng nghĩa của từ này hôm nay – mấy trăm công ty ở thời điểm 150 năm trước như một người “khởi nghiệp hàng loạt” – serial entrepreneur – theo kiểu Thung Lũng Silicon, ở mức độ chưa từng thấy.
Nhưng mục đích tối hậu của ông không phải làm giàu, mà vì lý tưởng xây dựng quốc gia, và trách nhiệm của một “sỹ phu doanh nhân” ở buổi giao thời, làm cho tri thức và những cách làm ăn mới lan tỏa trên cả nước một cách thuyết phục để quốc gia thắng lợi. Một dân tộc có những kỳ vọng vĩ đại phải có những người con vĩ đại để thực hiện và trung thành một cách gương mẫu với lợi ích tối thượng của quốc gia. Shibusawa xuất hiện rất đúng lúc lịch sử yêu cầu. Shibusawa không những lập công ty, mà dựng cả quốc gia. Người ta có thể nói đến các nhà khai sáng, giáo dục, chính trị gia, tướng lãnh, nhưng sự hình thành các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo cũng có ảnh hưởng to lớn, nếu không muốn nói quyết định, lên sức mạnh sống còn của quốc gia. Nhìn hệ thống các doanh nghiệp công nghiệp-tài chính, người ta có thể chẩn đoán sức khỏe của quốc gia.
Xin giới thiệu nồng nhiệt với quý độc giả một cuốn sách rất lôi cuốn.
Nguyễn Xuân Xanh
Sách Shibusawa Eiichi, Vũ Dạ Đàm, chủ trì và dịch giả: TS Nguyễn Lương Hải Khôi,
Với lời dẫn nhập của GS Trần Văn Thọ và Nguyễn Xuân Xanh
Dày 350 trang, giá bìa 159.000 VNĐ, phát hành tại Cty Phương Nam TP HCM, tháng 8, 2019
CẬP NHẬT 2020: Quyển sách vừa được trao Giải Sách Hay 2020 tại lễ trao giải ngày 27.9.2020
[I]
Shibusawa Eiichi: Hiện thân của
Tinh thần Doanh nghiệp Nhật Bản
TRẦN VĂN THỌ
(Giáo sư Đại học Waseda, Tokyo)
Trong khoảng 150 năm phát triển kinh tế, Nhật Bản đã sản sinh ra nhiều nhà doanh nghiệp vĩ đại. Nói đúng hơn, không có họ thì Nhật không có một nền công nghiệp hiện đại như ngày nay. Những người sáng lập Toyota, Honda, Sony, Matsushita, Canon, v.v.. đều là những nhà doanh nghiệp được người Nhật truyền tụng mãi với lòng tự hào. Nhưng vượt lên trên tất cả những người nầy có lẽ là Shibusawa Eiichi (1840-1931). Ông hội tụ tất cả – mọi đức tính, mọi tố chất của một nhà lãnh đạo. Và hơn thế nữa, sống trong buổi giao thời của hai chế độ, sống trong giai đoạn đất nước đứng trước nguy cơ bị Tây phương xâm chiếm, thái độ và hành động của một kẻ sĩ thức thời ở ông đã góp phần quyết định vào sự thành công của Minh Trị duy tân. Và về đạo đức trong kinh doanh, như ta sẽ thấy sơ lược dưới đây, và thấy chi tiết trong sách này, cũng như các cuốn sách mà nhà nghiên cứu Nhật Bản Nguyễn Lương Hải Khôi đã dịch, cổ kim Đông Tây có ai hơn Shibusawa? Câu chuyện Shibusawa còn đáng kể mãi là vì nó phản ảnh một tấm gương sáng của người lãnh đạo chính trị trong chế độ mới, vì lợi ích quốc gia đã cầu hiền từ những người của chế độ cũ. Nếu không thì tài năng của Shibusawa đã bị mai một và có thể người Nhật đã không có một đất nước như ngày nay.
Sinh ra vào giai đoạn cuối của thời đại Edo trong một gia đình trồng dâu nuôi tằm tại Saitama, một tỉnh giáp Edo (tên cũ của Tokyo) về phía bắc, Shibusawa lúc nhỏ đã rất thông minh, ham học. Ông được Tokugawa Yoshinobu, tướng quân cuối cùng của thời Edo, tuyển vào cung để dạy cho công tử học. Sau công tử của tướng quân được gửi sang Pháp du học và Shibusawa cũng được gửi theo để dạy kèm. Trong lúc ở Pháp, Shibusawa khám phá nhiều điều mới lạ của một xã hội tiên tiến. Đặc biệt ông quan tâm đến tổ chức và hoạt động của công ty, của hệ thống ngân hàng. Thế rồi ông vừa làm công việc dạy kèm vừa vùi đầu vào việc nghiên cứu, ghi chép các vấn đề này.
Khi Shibusawa về nước (1868) thì chế độ tướng quân đã sụp đổ, thay vào đó là chính quyền mới được lập ra chung quanh Minh Trị Thiên Hoàng, và tướng quân cuối cùng đã về ở ẩn tại Shizuoka, một tỉnh ở vùng núi Phú Sĩ. Shibusawa cũng theo chủ về ở Shizuoka. Về ở ẩn nhưng ông vẫn băn khoăn về vận mệnh đất nước, nhất là ông nghiên cứu và tập hợp tư liệu về việc xây dựng và tổ chức một nền kinh tế tiên tiến, nhưng bây giờ lại không được thi thố tài năng. Ông suy nghĩ nhiều về phương cách truyền bá sự hiểu biết của mình mong góp phần biến cải xã hội. Ông bèn lập ra Sở giảng dạy thương pháp (luật về thương mại) tại nơi ở của mình với mong muốn giúp những doanh nhân vừa ra đời trong thời đại mới hiểu biết về cách tổ chức một công ty hiện đại.
Cùng lúc đó, chính quyền Minh Trị đương bắt tay vào việc xây dựng đất nước dưới các khẩu hiệu “phú quốc cường binh”, “quyết theo kịp phương Tây”, v.v.. và nhận ra rằng họ đương thiếu một chuyên gia am hiểu các vấn đề tài chánh, ngân hàng,… Họ chuẩn bị gửi người đi du học nhưng được thông tin về Shibusawa, họ đã quyết định mời ông tham gia chính quyền và cho giữ ngay một chức vụ quan trọng trong Bộ Tài chánh. Với cương vị và uy tín nầy, Shibusawa đã thi thố được hết tài năng của mình. Năm 1872, ông thiết lập hệ thống ngân hàng hiện đại, trong đó lập các ngân hàng tiên tiến và kiểu mẫu, sau đó trở thành điển hình cho một loạt các ngân hàng công và tư hình thành trong giai đoạn 1877-1880. Trong các thập niên 1880 và 1890, Shibusawa còn lập ra hàng chục công ty hiện đại trong các lãnh vực kéo sợi, dệt vải, đóng tàu, hàng hải, bảo hiểm, đường sắt, v.v.. Rất nhiều công ty hàng đầu của Nhật hiện nay thuộc nhiều lãnh vực khác nhau đã bắt nguồn từ công lao xây dựng của Shibusawa. Để nâng cao địa vị của giới doanh nhân, ông còn khởi xướng lập Phòng thương mại Nhật Bản và nhiều đoàn thể kinh tế khác. Thật không ngoa khi có nhiều nhà phân tích đã gọi Shibusawa là ông tổ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản.
Shibusawa còn là một trong những người đầu tiên hô hào đạo đức trong kinh doanh, chủ trương nhà kinh doanh phải là người yêu nước và có hoài bão đem năng lực cải tiến xã hội, góp phần vào việc xây dựng đất nước và làm cho đồng bào mình được no ấm. Những công ty ông lập ra sau khi hoạt động đã lên quỹ đạo, ông rút lui nhường lại cho người trẻ để có thì giờ lập những công ty khác hoặc làm những việc khác, vì ông thấy trong một đất nước non trẻ còn quá nhiều lãnh vực cần ông phát huy năng lực. Ông có trên dưới 10 người con nhưng không hề áp đặt những công ty, những tổ chức do ông sáng lập phải nhận con ông vào trong ban lãnh đạo. Ông chủ trương con cháu ông phải tự lập, tự mình học hỏi, trau dồi và nếu xứng đáng thì xã hội sẽ trọng dụng.
Shibusawa bỏ công sức cho giáo dục và làm từ thiện. Ông đã tham gia sáng lập nhiều trường đại học, kêu gọi đóng góp vô vị lợi từ các công ty. Đại học Hitotsubashi, nơi tôi học ngày xưa, bắt đầu bằng một cơ sở giáo dục do ông sáng lập thời đầu Minh Trị (Sở giảng dạy thương pháp nói trên).
Tên tuổi của Shibusawa Eiichi được truyền tụng mãi ở Nhật Bản, chiếm một vị trí lớn trong sách giáo khoa cho học sinh các cấp. Ông là một trong những nhân vật lãnh đạo vĩ đại của thời Minh Trị và có thể nói ông là nhà doanh nghiệp vĩ đại nhất của Nhật xét từ mọi phương diện tài năng, đức độ, và mức độ ảnh hưởng đến quá trình đưa nước Nhật thành một cường quốc kinh tế.
Tôi có một kỷ niệm đẹp với người cháu đích tôn 4 đời của Shibusawa Eiichi, đó là Shibusawa Masahide (1925-). Ông cố nội (tằng tổ phụ) của Masahide là Shibusawa Eiichi và ông cố ngoại là Iwasaki Yataro (ông tổ sáng lập tập đoàn Mitsubishi). Từ đầu thập niên 1990, tôi có quan hệ khá thân thiết với ông Shibusawa Masahide, lúc đó ông là Giám đốc Quỹ Kỷ niệm Shibusawa Eiichi, đồng thời là hiệu trưởng trường Nữ học quán Tokyo (Tokyo Jogakkan). Khi tôi vận động các giới ở Nhật để thành lập Trung tâm Kinh tế châu Á Thái bình dương (VAPEC) tại Việt Nam (năm 1993), ông Masahide có tham gia vào ban cố vấn.
Một kỷ niệm rất đẹp là như thế này: Năm 1993 cuốn sách (bằng tiếng Nhật) của tôi (xuất bản năm 1992) được Giải thưởng Châu Á Thái bình dương (do Nhật báo Mainichi và Viện nghiên cứu Á châu tổ chức). Tôi đã dùng tiền thưởng đó tặng cho trường trung học phổ thông (Cấp 3) ở Hội An để làm quỹ học bổng cho học sinh nghèo. Thật ra ở bậc trung học cơ sở (Cấp 2) tôi học ở trường khác, một trường ở huyện Điện Bàn (Quảng Nam). Lẽ ra tiền học bổng nên chia hai để tặng cho cả hai trường, nhưng nghĩ là số tiền không lớn nên chỉ dành cho một nơi, còn nơi khác sẽ cố gắng tìm một quỹ khác.
Sau đó ít lâu, trong một buổi ăn trưa trò chuyện với ông bà Shibusawa Masahide, tôi vui miệng kể chuyện học bổng nói trên và tâm sự là nếu có số tiền lớn hơn tôi đã giúp cả trường cấp 2 nữa. Ông Masahide nói ngay: “Vậy để tôi giúp số tiền bằng tiền giải thưởng cuốn sách để anh lập quỹ học bổng cho Trường cấp 2”. Tôi rất ngạc nhiên vì sự phản ứng rất nhanh và rất tự nhiên của ông Masahide. Thế là cả hai trường đều có quỹ học bổng. Qua câu chuyện này, tôi muốn nói đến tinh thần vì công ích, vì xã hội đã thấm vào máu thịt của con cháu Shibusawa Eiichi.
Có nhiều định nghĩa về tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship) nhưng theo tôi, một tố chất quan trọng trong tinh thần doanh nghiệp là văn hóa, là đạo đức kinh doanh, là lòng yêu nước, là tinh thần phụng sự xã hội. Ở Việt Nam ta hiện nay rất cần những nhà doanh nghiệp có những tố chất như Shibusawa Eiichi.
Tokyo, mùa anh đào năm 2019
TVT
[II]
Shibusawa Eiichi
Doanh Nhân Lập Quốc Vĩ Đại
Của Nhật Bản Minh Trị
Nguyễn Xuân Xanh
[1]
Đầu tháng 4 năm 2019, ngân hàng Nhật Bản chính thức công bố sẽ phát hành ba loại giấy bạc trước thềm một thời kỳ mới bắt đầu với sự lên ngôi Hoàng đế của hoàng thái tử Naruhito ngày 1 tháng 5 sắp tới. Giấy bạc mệnh giá ¥10,000, cao nhất trong ba đồng tiền mới, có ảnh của Shibusawa Eiichi, sẽ lưu hành chính thức năm 2024, thay cho giấy bạc cùng mệnh giá có ảnh của nhà khai sáng Yukichi Fukuzawa. Vậy Shibusawa là ai?
Shibusawa Eiichi (1840-1931)
Xem thêm:
Shibusawa Eiichi, sơ lược về cuộc đời và tác phẩm
Nhật Bản làm một cuộc canh tân Minh Trị 150 năm trước thành công ngoài dự đoán của thế giới. Một đảo quốc nhỏ ở phương Đông bỗng nhiên biến thành đại bàng sải cánh, trở thành một cường quốc kinh tế-quân sự, và một quốc gia văn minh ở vùng mà các dân tộc khác chưa tỉnh lại từ giấc ngủ nghìn năm. Để có thành công đó, Nhật Bản đã sản sinh có vô số “anh hùng” trên mọi địa hạt, mọi bậc thang xã hội. Trên hết, những anh hùng nổi bật như Fukuzawa Yukichi trong lãnh vực tư tưởng và khai minh định hướng, Ito Hirobumi trong lãnh vực chính trị và lập quốc, và trong lãnh vực có tính quan trọng sống còn của một quốc gia, Shibusawa Eiichi, nhà doanh nghiệp – entrepreneur – đổi mới sáng tạo, và nhà tổ chức kinh tế lỗi lạc thuộc “đệ nhất thiên hạ”.
Shibusawa là một con người tài ba, tâm huyết, và có năng lực ngoại hạng, đã có công có những cống hiến vô cùng to lớn trong sự nghiệp phát triển toàn khu vực kinh tế tư nhân qua sự hình thành một “giai cấp doanh nhân mới” làm trụ cột vững chắc. Giai cấp doanh nhân này phải được xây dựng hoàn toàn mới, bởi nó không thể được kế thừa từ di sản của quá khứ thời Tokugawa chút nào, từ cách làm ăn, quan điểm, tầm nhìn, trình độ tri thức công nghiệp hiện đại, đến những chuẩn mực đạo đức, tinh thần yêu nước, phụng sự và dâng hiến cho quốc gia. Cho dù được khai sáng, có một nhà nước vững mạnh, nhưng không có một giai cấp doanh nhân đổi mới sáng tạo có năng lực, đi đúng quỹ đạo thế giới, thì cũng không thể đạt tới “quân hùng dân mạnh”. Thực tế, Shibusawa chính là người được ví như “Người cha của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản”, và là “giáo sĩ” truyền bá không mệt mỏi “phúc âm” của sự phồn vinh, tiến bộ, và thúc đẩy hình thành nền kinh tế hiện đại cũng như một giai cấp doanh nhân mới đầy năng lực và trách nhiệm như điều ông muốn.
[2]
Shibusawa là con trai của một gia đình nông dân giàu có, có học, có văn hóa. Những năm đầu của tuổi trẻ, ông chao đảo giữa việc phục vụ nó và hỗ trợ phong trào lật đổ chính phủ Mạc phủ Tokugawa, vì nó tỏ ra bất lực trong cuộc canh tân triệt để đất nước trước nguy cơ bị lệ thuộc. Sau khi được nâng lên quy chế samurai do những đóng góp tốt, ông phục vụ chế độ Shogun cho đến khi chế độ này bị lật đổ năm 1868. Một sự kiện có tầm quan trọng đối với tương lai ông là vào năm 1867, ông được chọn tháp tùng người em của Shogun cầm quyền, Akitake, đi dự Triển lãm Quốc tế Paris. Triển lãm nằm dưới sự bảo trợ của Napoleon III, diễn ra từ tháng 4 đến tháng 11, với 42 quốc gia đại diện, thu hút tổng cộng 15 triệu người xem. Trong số các vị khách đặc biệt có Nga hoàng II, Vua Wilhelm và Thủ tướng Otto von Bismarck của Phổ, và một số vị quan trọng khác.
Phái đoàn của Tokugawa Akitake tham gia hội chợ Paris 1867
Lần đầu tiên, Nhật Bản triển lãm các tác phẩm nghệ thuật tranh khắc gỗ, tạo được ấn tượng mạnh mẽ lên giới hội họa châu Âu. Không chỉ van Gogh mà cả nhiều nghệ sĩ khác trường phái ấn tượng chủ nghĩa của Pháp mê tranh Nhật Bản và họ nói về một “thế giới quan Nhật Bản”, Japonism. Cũng trong cuộc triển lãm này, nhà sản xuất công nghiệp Đức Krupp lần đầu tiên trưng bày loại súng cà-nông có trọng lượng đến 50 tấn làm bằng thép, và thực tế nó sẽ có một hệ quả khôn lường trong thế cờ chính trị châu Âu qua cuộc chiến tranh Phổ-Pháp diễn ra chỉ vài năm sắp tới. Trong chuyến công du Iwakura năm 1871-73 các nhà lãnh đạo Nhật sẽ thăm tập đoàn sản xuất Krupp tại thành phố Essen.
Chuyến đi này mở mắt Shibusawa. Ông bị ấn tượng vô cùng mạnh mẽ trước các công ty cổ phần (joint-stock) bề thế của châu Âu, nhìn thấy trong đó một thông điệp quan trọng cho Nhật Bản, nhìn thấy các cường quốc công nghiệp châu Âu là mô hình phát triển cho Nhật Bản để học hỏi. Những công trình công nghiệp lớn không thể nào được thực hiện mà không có sự chung sức của nhiều nguồn lực và tài năng lãnh đạo đóng góp lại. Loại hình công ty này có lịch sử lâu đời ở châu Âu từ thời Trung cổ và ngày càng phát triển ở những thế kỷ 16, 17, vượt khỏi khuôn khổ gia đình. Các nhà công nghiệp lớn đều có tầm nhìn quốc gia và quốc tế. Muốn trở thành cường quốc kinh tế, Nhật Bản cũng phải làm ăn lớn, sản xuất lớn, và muốn thế phải có các công ty cổ phần lớn làm nền tảng. Nhưng lấy đâu ra những công ty cổ phần lớn đó ở Nhật Bản? Phần lớn giới kinh doanh vẫn còn làm ăn manh mún với tâm tính lạc hậu thời phong kiến.
Khi trở về nước, Shibusawa được Ōkuma Shigenobu (người xây dựng Đại học Wasade năm 1882), lúc này là Bộ trưởng Bộ ngoại giao của chính quyền mới 1868, thuyết phục nhận một vị trí trong Bộ Tài chính, ở đó ông làm việc chặt chẽ với Inoue Kaoru, thứ trưởng Bộ tài chính, và ông đã hoạt động rất thành công. Nhưng đến năm 1872 thì ông tự ý rời bỏ vị trí rất hứa hẹn này, vì sao? Vì ông muốn dấn thân toàn tâm toàn trí vào việc phát triển các lãnh vực công nghiệp và ngân hàng tư nhân. Shibusawa giúp xây dựng “Đệ nhất ngân hàng quốc gia” (Dai Ichi Ginkō) tháng 11, 1872, là ngân hàng cổ phần hiện đại đầu tiên. Với tư cách chủ tịch ngân hàng, ông đóng vai trò then chốt trong việc phát triển các ngân hàng mới, và đào tạo lãnh đạo và sự phát triển các chính sách ngân hàng. Lấy ngân hàng đó làm bàn đạp, ông thành lập hàng trăm công ty cổ phần như Imperial Hotel, Nippon Usen, Nippon Steel, Ngân hàng Tokyo, Cty chứng khoán Tokyo, Cty kéo sợi Osaka và Bia Sapporo. Ông thực tế can dự vào tất cả doanh nghiệp liên quan đến sự phát triển công nghiệp của đất nước, thành lập hệ thống hỏa xa, các cty tàu thủy, đánh cá, cty in, nhà máy thép, các nhà máy ga và điện, các tổ hợp khai thác mỏ và dầu hỏa.
Với sự thành công của công ty kéo sợi Osaka, một dạng công ty cổ phần như được mô tả dưới đây, ông được xem là nhà lãnh đạo tiên phong trong ngành kéo sợi. Sau đó, ông đầu tư nhiều vào ngành đường sắt và vận tải biển, và quảng bá cho hình thức công ty cổ phần như phương tiện tốt nhất để phát triển kinh tế Nhật Bản, đối kháng với hai công ty khổng lồ là Mitsui và Mitsubishi. Về sau, ông cũng là người thành lập các tổ chức xã hội-văn hóa như Phòng thương mại và công nghiệp, Imperial Theater, Đại học Phụ nữ Nhật Bản, Hội chữ thập đỏ Nhật Bản, hỗ trợ cho giáo dục, đặc biệt trong giáo dục bậc cao về kinh doanh như các trường Đại học Hitotsubashi, Tokyo Keizai, giáo dục đại học cho phụ nữ và trường tư. Ông can dự vào khoảng 600 đề án liên quan đến giáo dục, phúc lợi xã hội và những thứ khác.
[3]
Để hiểu thêm ý nghĩa của hoạt động kinh tế của Shibusawa, chúng ta cần hiểu bối cảnh kinh doanh tại buổi giao thời. Ở Nhật Bản thời Tokugawa, hầu như không có khái niệm “công ty cổ phần” là gì, và khi bước qua giai đoạn Minh Trị, các nhà buôn giàu có cũng vẫn giữ cách làm ăn cũ dựa trên gia đình là chính, sự hợp tác ngoài gia đình là xa lạ. Mitsui là tiêu biểu, hoạt động của doanh nghiệp này hoàn toàn dựa trên gia đình, và qua đến thời cải cách Minh Trị cũng như thế. Người chủ của nó, Iwasaki Yatarō chống lại chủ trương công ty cổ phần của Shibusawa. Khi chính quyền Minh Trị, với những nỗ lực của Shibusawa, tuyên truyền cho loại hình công ty mới này, thì các nhà buôn thời cũ cũng chỉ làm một động tác duy nhất là thay đổi cái tên ya (cửa hàng) thành kaisha (công ty). Các rào cản giai cấp-xã hội không còn, nhưng vết hằn tâm lý, thói quen vẫn ngự trị trong đầu con người. Ngược lại, samurai là giai cấp dễ dàng chấp nhận hình thức công ty mới, bởi họ không có truyền thống nào cố định. Samurai, nhìn chung, chính là những người tiên phong thực hiện các công ty cổ phần. Năm 1899, nhìn lại sự phát triển của các công ty cổ phần, Shibusawa cho rằng, sự tiến bộ đáng ngạc nhiên của nền công nghiệp và ngân hàng Nhật Bản là do loại hình công ty này, ngược lại với tình hình lạc hậu ở Trung Quốc nơi kinh doanh chỉ dựa vào gia đình.
Các nhà lãnh đạo kinh doanh sáng tạo (entrepreneurial leaders) thời đầu và giữa Minh Trị là ít ỏi. Họ phải hoạt động trải rộng ra trên nhiều lĩnh vực, để giải quyết những vấn đề cơ bản, nhường lại những vấn đề khác cho những người khác lo. Và một khi khi giải quyết xong, họ đi tìm mục tiêu mới. Shibusawa là nhà lãnh đạo kỳ tài và đa dạng như thế. Ở vị trí này hay vị trí khác, Shibusawa có mối liên hệ với hơn 500 công ty đa dạng loại, phần lớn là những công ty công nghiệp – với tư cách là chủ tịch, giám đốc, tư vấn hay cổ đông. Ông vừa là nhà hoạt động ngân hàng (banker) chuyên nghiệp, cũng như là nhà công nghiệp. Sở dĩ như thế là vì tuy ông biết ít về công nghệ, nhưng ông là người giải quyết được những vấn đề then chốt làm tắc nghẽn doanh nghiệp. Rồi ông giao lại cho quản lý. Khi một nhà máy có vấn đề nan giải, ông có thể xông vào để tìm giải pháp. Shibusawa là “problem solver” – người giải quyết vấn đề, nhà chiến lược và đổi mới sáng tạo của cuộc công nghiệp hóa hiện đại.
Các công ty Shibusawa thành lập có những đặc tính sau đây:
[1] Một số phần trăm cực kỳ cao các doanh nghiệp là các hình thái hoàn toàn mới chưa bao giờ có mặt ở Nhật Bản trước đó, Công ty cổ phần, và đưa vào sử dụng tri thức và công nghệ mới của phương Tây, như Cty kéo sợi Osaka, Cty sản xuất gạch Nhật Bản, Cty Phân bón nhân tạo Tokyo, Bảo hiểm hàng hải Tokyo, Xưởng đóng tàu Ishikawajima Tokyo, Cty giấy Oji, Cty khí Tokyo, và Cty bia Sapporo.
[2] Nhiều trong số số các công ty được ông thành lập góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hiện đại, như hệ thống đường sắt, cảng, khai mỏ, bao gồm Cty đường sắt Nhật Bản, Cty đường sắt Hokkaido, Cty đường sắt Hokuriku, Cty xây dựng cảng Wakamatsu, Cty xây dựng cảng Moji, Cty khai thác mỏ than Iwaki, và Cty khai thác than Nagato không khói.
Shibusawa nhận thấy có sự “siêu thừa thãi” công chức chính quyền và sự thiếu hụt các doanh nhân có năng lực và đầu óc tiến bộ. Ông nhận thấy, trong ngọn lửa hừng hực của đổi mới đất nước đang diễn ra, thanh niên dễ có khuynh hướng đi vào chính trị và quân sự mà đánh giá thấp kinh tế. Cái gì lớn lao và kích động thường được quy về chính quyền, giới chính trị, khiến cho những người trẻ có tham vọng của giai tầng tinh hoa kỳ vọng vào một chức vụ trong chính quyền, hơn là vào công việc kinh tế. Cho nên, việc thu hút tài năng trẻ dấn thân cho hoạt động kinh tế là nhiệm vụ hết sức quan trọng của ông. Theo ông, kinh tế mới là cơ sở của chính trị. Kinh tế yếu, không thể có chính trị mạnh. Và đó chính là công việc mà ông đã hiến dâng cả cuộc đời. Ông rời khỏi chức vụ trong Bộ tài cũng chính là để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân. Ông cũng đã nhìn thấy, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa quan liêu là hai kẻ thù nguy hiểm của kinh tế. Ông luôn luôn nhấn mạnh đến sự độc lập đối với chính quyền, bởi ông từng chứng kiến khuynh hướng các doanh nghiệp Minh Trị hay dựa dẫm vào tiền bao cấp của chính quyền, và những hợp đồng béo bở mà các zaibatsu (“tập đoàn tài phiệt”) thường là những người hưởng lợi. Ông chống lại chủ nghĩa phân biệt đối xử, chủ nghĩa hậu đãi đang diễn ra.
[4]
Tuy Shibusawa có lẽ là doanh nhân lỗi lạc và có tầm nhìn xa nhất trong tất cả các doanh nhân thời Minh Trị, nhưng tại sao ông không bao giờ tích lũy tài sản trên qui mô của Iwasaki Yatarō, Ōkura Kihachirō, Yasuda Zenjirō, để trở thành một zaibatsu của riêng ông? Ông thành lập hàng trăm công ty mà giờ đây rất nhiều trong đó vẫn còn tên tuổi, nhưng ông không có vương quốc riêng để thống trị? Zaibatsu Shibusawa có, nhưng chỉ để quản lý tài sản ông. Sở dĩ như thế là vì ông nghĩ khác, có nhân cách và mục tiêu tối hậu khác. Vương quốc lớn nhất của ông là quốc gia và những quyền lợi tối thượng của nó, là cộng đồng doanh nghiệp, mà ông là người đầy tớ trung thành. Ông không phải là doanh nhân chỉ biết tập trung kiếm tiền, tối đa hóa lợi nhuận và tích lũy. Ông thành công với tư cách nhà công nghiệp và nhà ngân hàng, nhưng không phải chỉ xoay quanh tích lũy tài sản. Mối quan tâm trong trái tim ông xa hơn, là giáo dục và xây dựng cộng đồng kinh doanh vững mạnh. Ông hành động như nhà khai sáng công nghiệp, một chính khách, một nhà triết học, và cuối cùng nhưng trên hết, là nhà giáo dục và truyền bá tri thức, như một “giáo sĩ” trong lĩnh vực kinh doanh và đạo đức. Các zaibatsu tích lũy được tài sản và quyền lực của tiền bạc, vì họ tập trung vào đó, và ít quan tâm đến những việc khác. Còn Shibusawa chăm sóc sự phát triển của cả nền kinh tế và cộng đồng doanh nhân, và cuối cùng sống mãi trong ký ức của lịch sử Nhật Bản như người cha của nền kinh tế hiện đại. Ông chinh phục cộng đồng doanh nghiệp không phải bằng quyền lực hay tiền bạc, mà trên hết bằng sự thuyết phục và tấm gương phụng sự tận tụy. [Hirschmeier, 236]
Theo ông, sự phát triển kinh tế đòi hỏi không chỉ vốn và công nghệ hiện đại, nhưng căn bản sự chấp nhận một lý tính và đạo đức kinh doanh mới. Trong thời Tokugawa, nhiều giá trị phi-kinh tế dai dẳng bám sát truyền thống và xem thường giới thương nhân, ngăn chặn sự phát triển kinh tế. Theo Shibusawa, doanh nhân – entrepreneur, gồm những nhà công nghiệp, nhà ngoại thương, và nhà ngân hàng − cần có những phẩm chất: giáo dục, chân thật, đức hạnh, nhân cách và một sự tổng hợp giữa Luận ngữ của Khổng tử và bàn tính (abacus). Ông diễn giải những tính chất này là cái Đạo của Samurai (bushidō) trong thời kinh doanh mới. Hai tính chất quan trọng được đề cập dưới đây.
Tranh “Luận ngữ và Bàn tính” của họa sĩ Koyama Shōtarō (Shibusawa Memorial Museum)
Giáo dục (gakumon) là điều điều tất yếu phải có trong thời đại mới. Công nghệ hiện đại và các phương pháp kinh doanh được du nhập từ phương Tây, làm sao có thể kinh doanh mà không học được? Cho nên ông nỗ lực ủng hộ việc thành lập các trường cao đẳng thương mại và các trường định hướng thực tiễn. Gakumon luôn luôn là biểu tượng đẳng cấp của giai cấp samurai. Giai cấp này dưới thời Tokugawa là giai cấp có học, không phải học để làm quan, mà học để có văn hóa và văn minh, có đủ năng lực phán đoán, xứng đáng với vai trò lãnh đạo của họ. Điều này tương tự như cái học các ngành nghệ thuật khai phóng ở các đại học Trung cổ. Sự nhấn mạnh sự học Khổng giáo có tính lý thuyết có mục đích tương tự như học các môn khai phóng, học triết học kinh viện hay giáo dục nhân văn dựa trên tiếng La tinh và Hy Lạp ở phương Tây từ thời Trung cổ trong đại học, nhằm rèn luyện trí tuệ và định hình “khí tính” con người. Cái học này cũng tạo nên niềm hãnh diện và ý thức ưu việt về đạo đức của giới samurai Nhật Bản đối với “những người man di phương Tây”. Chính các học giả Khổng giáo thời Tokugawa là những người có đầy đủ năng lực thực hiện cuộc chuyển đổi từ cái học cũ sang cái học phương Tây, từ một xã hội phong kiến sang xã hội hiện đại. Điều đó cho thấy sự khác biệt căn bản giữa giới samurai Khổng giáo và giới nho giáo Việt Nam. Lực lượng thúc đẩy chính yếu cuộc công nghiệp hóa thời Minh Trị không còn là giới thương nhân của thời Tokugawa nữa như người ta có thể nghĩ. Trong số 231 triệu phú trong thời Edo, chỉ còn 20 sống sót vào giai đoạn cuối của thời Minh Trị. Chủ lực kinh tế của thời đổi mới là các nhà công nghiệp và ngân hàng hiện đại mới lên. Mitsui và Sumitomo từ thời Edo vẫn tiếp tục tăng trưởng phát đạt, nhưng đó chỉ là ngoại lệ hơn là qui luật. Nguyên nhân chính là các thương nhân thời Tokugawa đã không thoát khỏi thói quen cũ, vẫn gắn bó với những ngành công nghiệp truyền thống và các lề lối kinh doanh cũ. Những doanh nhân thời Minh Trị phần lớn thuộc giai cấp samurai có lợi thế trình học vấn cao hơn, có tinh thần đổi mới hơn, và có quan hệ tốt với chính quyền đa số gồm các samurai có cùng văn hóa với họ.
Kết hợp Luận ngữ với bàn tính là kết hợp đạo đức Khổng giáo và năng lực kinh doanh. Trong khi nhiều người nhấn mạnh tinh thần–jōi, phản kháng muốn đánh đuổi người nước ngoài ra khỏi bờ cõi ngay tức khắc, thì Shibusawa nói, hãy biến tinh thần phản kháng thành sức mạnh trí tuệ để xây dựng đất nước, đó mới là cách bảo vệ hữu hiệu hơn.
Chỉ với những đức hạnh như chính trực, công bằng, và trách nhiệm đối với quyền lợi công thì những doanh nhân Nhật Bản mới giành được sự kính trọng của thế giới phương Tây và thắng lợi trong cuộc chạy đua toàn cầu.
Nhiều người nhấn mạnh những tư tưởng mới từ phương Tây làm nguồn cảm hứng và triết lý, chẳng hạn như Fukuzawa, nhưng Shibusawa nói ông muốn “xây dựng các doanh nghiệp hiện đại với bàn tính (abacus) và Luận ngữ của Khổng tử”. Chủ nghĩa tư bản thôi chưa đủ để có ích lợi cho Nhật Bản nếu không có nền tảng đạo đức của Khổng giáo. Ông cảnh báo, đạo đức sẽ suy giảm nếu gakumon bị các tư duy lợi ích thuần túy hoàn toàn khống chế.
Khổng giáo thực ra có những điểm cản trở phát triển kinh tế, như lên án sự làm giàu, giống như Kitô giáo ở châu Âu. Nhưng chủ nghĩa tư bản đã “hòa giải” được ở châu Âu. Và rồi như thế ở Nhật Bản, chủ nghĩa tư bản ở phương Đông cũng đã sớm hòa giải được với Khổng giáo như một “ý thức hệ” [Xem John H. Sagers]. Nhưng, từ ý muốn của giới lãnh đạo ở trên, chủ nghĩa tư bản phải có trách nhiệm đối với cộng đồng và quốc gia. Người Nhật muốn nắm đạo đức đằng cán chứ không muốn nắm đằng chuôi. Đây là điểm thảo luận sôi nổi của những nhà lập quốc Nhật Bản Minh Trị trong thập niên 1880 để cuối cùng đi đến việc thiết lập đạo đức Khổng giảo trên toàn xã hội, bắt đầu từ trường học, bằng các pháp lệnh Ý chí Đế chế về Giáo dục năm 1879, và “Pháp lệnh Đế chế về Giáo dục” năm 1890. Điều này đã thực hiện đúng nội dung của khẩu hiệu các trí thức Nhật Bản: “Khoa học/công nghệ phương Tây. Đạo đức phương Đông”. Nhật Bản muốn thiết lập một nền đạo đức quốc gia (kokumin dōtoku) để giữ vững bản sắc truyền thống rất sống động của họ.
[5]
Dưới đây là một thí dụ sống động cho thấy tính tiên phong của Shibusawa. Ngành dệt của Nhật Bản là ngành công nghiệp mũi nhọn đầu tiên trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Nhà máy kéo sợi Osaka mà Shibusawa thành lập dưới đây đã trở thanh một mô hình hoa tiêu thúc đẩy một phong trào thành lập những nhà máy mới lớn và hiện đại tương tự trong những năm sau, chủ yếu tại Osaka là thành phố truyền thống của ngành dệt Nhật Bản.
Shibusawa và Cty kéo sợi Osaka (Osaka Boseki Kaisha)
Nhà máy kéo sợi Osaka là rất nổi tiếng của Nhật Bản. Nó ra đời thế nào? Đây là câu chuyện cho thấy bàn tay khởi nghiệp sáng tạo của Shibusawa. Năm 1877, một sinh viên 26 tuổi tên Yamanobe (hay Yamabe) Takeo đang học lý thuyết kinh tế và bảo hiểm tại Luân Đôn. Một ngày nọ, anh ta nhận được một lá thư của một người không quen biết từ Nhật Bản, tên Shibusawa Eiichi. Lá thư nói như thế này: “Yamanobe thân mến, tên của anh được một người bạn tôi nhắc tới. Nhật Bản đang nhập khẩu rất nhiều sợi cotton. Chúng ta cần phải thiết lập một kỹ nghệ xe sợi trong nước. Chúng ta cần những người thông thạo cả hai, về quản lý lẫn công nghệ. Bạn có thể nào học ngành kỹ nghệ cotton được không? Tôi sẽ tạo ra một công ty.”
Có lẽ Yamanobe cảm thấy khó chịu. Ai là người dám khuyên tôi thay đổi chủ đề học? Nhưng sau khi suy nghĩ một hồi, anh ta quyết định làm theo lời khuyên của Shibusawa. Anh đến King’s College và học lý thuyết công nghiệp dệt. Nhưng lý thuyết thôi không đủ. Anh cho đăng quảng cáo trên báo: HÃY THUÊ TÔI NHƯ MỘT NGƯỜI HỌC VIỆC CÔNG NGHIỆP SỢI, TÔI SẼ TRẢ TIỀN, nhưng không công ty nào trả lời. Cuối cùng, anh ta gặp ông W. E. Braggs, người nhận Yamanobe làm việc và cho phép anh tiếp thu kiến thức thực tiễn trong xí nghiệp ông trong tám tháng. Việc học bao gồm công nghệ, tiếp thị và vận chuyển hàng hóa. Yamanobe làm việc cật lực. Shibusawa gửi Yamanobe 1.500 yen để hỗ trợ việc học, là tiền túi của ông. Shibusawa nhớ lại sau này, đấy là một số tiền khổng lồ cho anh ta, và đó là một hành động rất mạo hiểm của tôi. “Vốn mạo hiểm”.
Khi việc học xong, Yamanobe đặt mua một số máy dệt và đầu máy hơi nước từ những nhà chế tạo máy nổi tiếng như Platt và Hargreaves, và quay về Nhật Bản. Năm 1882, Shibusawa và Yamanobe chọn một vị trí thích hợp cho xí nghiệp ở Osaka. Để thành lập công ty, 250.000 yen được huy động từ bạn bè của Shibusawa gồm các nhà buôn giàu có (của Osaka và Tokyo) và các nam tước phong kiến như những cổ đông, trong khi ngân hàng Đệ nhất quốc gia của Shibusawa sẽ góp vốn lưu động. Năm 1883 xí nghiệp kéo sợi Osaka được khai trương. Yamanobe làm kỹ sư trưởng của xí nghiệp. Đấy là nhà máy xe sợi cơ khí hóa quy mô nhất, đầu tiên với những thiết bị hiện đại nhất nhập từ nước ngoài với 10.500 cọc sợiFOOTNOTE: Footnote và trở thành một “khởi nghiệp” rất thành công, kết hợp nhiều tính chất như sử dụng đầu máy hơi nước, làm hai ca ngày đêm, xử lý cotton ngoại nhập, gửi kỹ thuật viên ra nước ngoài đào tạo, giảm giá thành, cũng như sử dụng hình thức công ty cổ phần. Nó trở thành mô hình tiêu biểu cho nhiều công ty kéo sợi về sau.
Vào năm 1900, có một cuộc suy thoái nặng nề trong ngành dệt. Các cổ đông đòi hỏi lợi nhuận cao hơn và nhanh hơn. Nhưng Yamanobe nhất định đứng trên lập trường của một sự phát triển dài hạn của công ty. Ngay cả vị tổng giám đốc phê bình ông. Tuyệt vọng và có ý muốn ra đi, Yamanobe đến thăm Shibusawa tại nhà riêng. Shibusawa bảo đảm Yamanobe rằng ông sẽ ủng hộ anh ta 100 phần trăm và yêu cầu anh ta tiếp tục ở lại làm việc cho công ty. Được thuyết phục, Yamanobe ở lại. Khi cuộc suy thoái qua đi, Yamanobe được đề bạt lên làm Chủ tịch Cty kéo sợi Osaka. [Kenichi Ohno, 70-71]
Một năm sau khi khai trương thì cổ tức được trả cho các nhà đầu tư là 18%! Cái gì mới ở đây? Vào thời điểm đó, tất cả những nỗ lực của nhà nước để khuyến khích ngành kéo sợi cơ khí hóa, nhưng kết quả rất thấp. Một ít nhà máy tồn tại chỉ có 2.000 cọc và được xây dựng với với sự bao cấp của nhà nước, nhưng hoạt động đều không hiệu quả. Những lý do chính là thiếu chuyên môn kỹ thuật và quản lý, qui mô nhỏ, địa điểm không thích hợp, dựa trên sức nước, và thiếu vốn để mở rộng. Những vấn đề này đã được Shibusawa giải quyết cùng một lúc. Một nhà máy thứ hai theo mô hình này được xây dựng năm 1886 với số cọc lên đến 20.800 nghĩa là gấp đôi nhà máy Osaka, và cũng thành công như thế. Shibusawa nổi tiếng như cồn. Ông được các công ty kéo sợi săn tìm để nhờ tư vấn, chẳng hạn như công ty kéo sợi Mie. Ông đã giúp cho công ty này chỉ sau vài năm hoạt động theo mô hình mới đã trở thành một trong những công ty thành công nhất, Các nhà đầu tư hiểu bài học của Shibusawa, và nhanh chóng phát triển theo mô hình đó và đã tạo ra một sự phát triển nhảy vọt cho ngành kéo sợi. Từ 1886 đến 1894 có tất cả 33 nhà máy mới được thành lập, trong đó 10 cái tọa lạc tại các vùng cận Osaka.
[6]
Trở lại sự phát hành giấy bạc mang ảnh Shibusawa đầu năm 2019. Phải chăng nhà nước Nhật Bản muốn làm sống lại một tấm gương “anh hùng kinh tế”, cùng với thời đại anh hùng mà ông đã sống, để đất nước sản sinh ra những tài năng mới trong kinh doanh lẫn chính trị giúp Nhật Bản vượt lên khỏi giai đoạn trì trệ kinh tế hiện nay? Shibusawa là người không bao giờ từ bỏ niềm tin, rằng xã hội chỉ có thể phát triển hài hòa, lành mạnh, và có nhiều sức sống, khi tinh thần “kính trọng quyền lực và xem nhẹ công dân” được thay thế bằng một cơ chế dân chủ hơn để năng lượng xã hội có thể được tích tụ vào khu vực tư nhân. Chúng ta sẽ có thể chờ đợi gì ở thời kỳ mới Lệnh Hòa của Nhật Bản sắp đến?
Nguyễn Xuân Xanh
Tháng 4, 2019
Tham khảo:
[1] William W. Lockwood (ed.), The State and Economic Enterprise in Japan. Essays in the Political Economy of Growth. Princeton University Press, 1965
[2] Kenichi Ohno, History of Japanese Economic Development. Origins of Private Dynamism and Policy Competence. Routledge, 2018.
[3] Shimada Masakazu, The Entrepreneur Who Built Modern Japan: Shibusawa Eiichi. Translated by Paul Narum. Japan Publishing Industry Foundation for Culture, 2017.
[4] Edwin O. Reischauer, Japan. The Story of a Nation. Fourth Edition. McGraw-Hill Publishing Company, 1970.
[5] Andrew Gordon, A Modern History of Japan. Second edition. Oxford University Press, 2009.
[6] John H. Sagers, Origins of Japanese Wealth and Power. Reconciling Confucianism and Capitalism, 1830-1885. Palgrave McMillan, 2006.
[7] Hugh Borton, Japan’s Modern Century. Second edition.The Ronald Press Company, 1970.
[8] Edwin O. Reischauer & Albert M. Craig, Japan. Tradition & Transformation. Revised edition. 1989.