Cảm nghĩ đầu Xuân (Ất Tỵ 2025)

by , under Giới thiệu sách, Uncategorized

NĂM MƯƠI NĂM NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC

Cảm nghĩ đầu Xuân

Nguyễn Xuân Xanh

 

Thế giới trong trăm năm qua đã biến đổi cơ bản hơn bất cứ thế kỷ nào khác trước đó. Không phải do những học thuyết chính trị hay kinh tế mới nào, mà do những sự phát triển kỹ thuật bảo táp, được tạo điều kiện bởi những tiến bộ trong nghiên cứu cơ bản.

Stephen Hawking, Nhà vật lý lý thuyết và vũ trụ học Anh

 

Trên thực tế, phương pháp sản xuất thay đổi chủ yếu là do các nguyên cớ trí tuệ, tức là do những khám phá và phát minh khoa học.

—Bertrand Russell, Nhà toán học, triết học Anh thế kỷ XX

 

Chỉ có khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mới là con đường giúp chúng ta bắt kịp, tiến cùng, bứt phá và vượt lên chính chúng ta và thế giới.[1]

Tô Lâm, Tổng Bí thư Việt Nam

 

Tạp chí Xưa và Nay, số Xuân Ất Tỵ 2025

 

[I]

MỘT BIỆN MINH CHO CÔNG NGHIỆP HÓA

Thay cho lời nói đầu

Công nghiệp là linh hồn của kinh doanh và là nền tảng của sự thịnh vượng.

—Charles Dickens, Tiểu thuyết gia Anh thế kỷ XIX

 

Anh chị và các bạn thân mến,

Năm nay tôi tình cở được tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam mời tham gia mục Cảm nghĩ đầu Xuân Ất Tỵ 2025 nhân năm mươi năm đất nước hòa bình, thống nhất,1975-2025. Nhưng biết viết gì đây khi nửa thế kỷ qua là quãng thời gian đầy giông tố và đổi thay, chạm đến tình cảm thiêng liêng của biết bao nhiêu người đã khuất và còn sống? Đắn đo, nhưng tôi cố gắng viết đôi lời, để không phụ lòng lời mời nhiệt tình của người lãnh đạo tạp chí. Cuối cùng tôi đã chọn được một góc nhìn mà những vấn đề ở đó thiển nghĩ sẽ gắn liền với định mệnh của quốc gia trong thập kỷ tới: to be or not to be. Kết quả là bài Năm mươi năm nhìn về phía trước dưới đây. Nhìn về phía trước cũng là để hiểu quá khứ và hiện tại. Con đường nào dành cho Việt Nam trong một thế giới cạnh tranh ngày càng dữ dội? Một “ngõ hẹp” mỗi quốc gia nhất thiết phải đi như một mệnh lệnh để tiến đến một chân trời hoàn toàn mới mà có lẽ mọi người không biết như một giấc mơ. Con đường ấy tôi tạm ví như một loại “lỗ sâu” trong vật lý, để quốc gia chuyển từ một trạng thái nghèo khó sang một thế giới mới của phồn vinh và cường thịnh, an ninh được bảo đảm. Tôi muốn nói về những “nguyên lý” chung, cơ bản, của phát triển kinh tế rút ra từ kinh nghiệm của thế giới, mà các quốc gia hóa rồng đã đi qua, xuất phát từ “đồng bằng của nghèo khó” để đạt tới “cao nguyên của sự phồn vinh”. Trước khi đi tiếp, tôi phải nói lời cảm ơn đến những người trách nhiệm của tạp chí Xưa và Nay đã cho đăng trọn bài gần bốn nghìn chữ của tôi mặc dù ban đầu hai bên chỉ nghĩ đến “vài dòng cảm nghĩ” thôi. Hơn nữa, nếu không có lời mời nhiệt tình của Xưa và Nay, điều làm cho tôi cảm thấy một trách nhiệm giữa lúc bầu không khí đang có nhiều sự kiện đáng chú ý, có lẽ cũng chưa chắc có các bài viết dưới đây. 

Về cụ thể, quyển sách Khi con chip lên ngôi của tác giả Nguyễn Trung Dân ra mắt mới đây, đã nêu lên bức tranh của một sự chuyển đổi bứt phá. Nói chung, như một quy luật, muốn đi đến chân trời mới, nhà nước và nhân dân cần phải đáp ứng một loạt tính chất cao cấp đại để như sau. Đó là, để mượn ngôn ngữ của AI, “deep learning”, nghiên cứu sâu về khoa học công nghệ, học cho đến nơi đến chốn và thực hành, “deep investment” vào khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng tri thức, “deep education” về khoa học công nghệ từ thấp đến cao, “deep commitment” của một nhà nước đổi mới sáng tạo, đồng hành và gắn bó với doanh nhân, “deep attraction” đối với tất cả nguồn lực nhân sự công nghệ của người Việt đang có ở nước ngoài, nhất là ở Mỹ, với một chế độ phù hợp theo nguyên tắc meritocracy, áp dụng kể cả đối với người trong nước.

Meritocracy, xin phép nói thêm vì nó hết sức quan trọng trong việc sử dụng “tài nguyên” của quốc gia, là chế độ trọng dụng tài năng hết sức căn bản trong lịch sử thế giới mà nếu không có nó, thế giới sẽ bị đảo lộn. Vị trí của một cá nhân trong xã hội chỉ nên phụ thuộc vào sự kết hợp giữa năng lực và nỗ lực của người đó, chứ không vào nguồn gốc sinh đẻ. Từ cuộc cách mạng Pháp 1789 đã vang lên lời kêu gọi cấp bách như battle cry để tái tổ chức lại quốc gia theo nguyên tắc meritocracy chủ đạo:

Mọi lực lượng phải được đánh thức và phải được trao cho một vị trí xứng đáng. Nguồn gốc sinh đẻ không còn là độc quyền cho chức vị. Nếu cho nó quá nhiều quyền thì cả một lực lượng lớn trong lòng quốc gia sẽ ngủ yên không phát triển và đôi cánh vươn lên của tài năng sẽ bị làm tê liệt bởi các quan hệ bẩn chật. Trong khi một Đế chế suy tàn trong bệnh hoạn yếu đuối, thì một Caesar có lẽ đi cày trong cái làng thống khổ nhất của ông và một Epaminondas (tướng tài của Hy lạp trước công nguyên) phải nuôi thân chật vật bằng lao động của hai bàn tay mọn của mình. Người ta vì vậy phải xử dụng đến những biện pháp đơn giản và hữu hiệu hơn để mở ra cho thiên tài một con đường, bất kể thiên tài từ đâu đến. Người ta cũng phải mở cánh cửa khải hoàn cho các lự lượng công dân… Thời đại mới cần hành động và sức mạnh tươi mát hơn là tên tuổi và địa vị.

Cuộc Cách mạng (Pháp) đã biến cả sức mạnh quốc gia của nhân dân Pháp thành hành động,… biến sức sống trong con người và sức mạnh của của cải thành một loại tư bản phát triển lan nhanh, và bằng cách đó đã  phá vở các quan hệ cũ của các nhà nước với nhau và sự cân bằng dựa trên đó. Nếu các nhà nước khác muốn lập lại thế cân bắng này, họ phải mở cửa và sử dụng  những biện pháp (cách mạng) đó.

(Tướng tài Gneisenau của Phổ, 1806, từ Nước Đức Thế Kỷ XIX)

Quân đội Napoleon, lúc đánh sập quân đội Phổ chỉ trong một ngày năm 1806, là quân đội hừng hực sức chiến đấu, vì những người lính nông dân trong đó biết rằng, họ với tư cách là con người tự do là chủ sở hữu của quốc gia, trong khi những người nông dân ở Phổ vẫn còn là nô lệ cho những người chủ đất và giai cấp phong kiến. Cuộc cải cách lớn nhất ở Phổ bắt đầu vào ngày giải phóng nông nô sau đó, giải phóng sức lao động, và cho phép mọi người, nông dân cũng thị dân đều có quyền tham gia vào việc kinh doanh để mưu cầu hạnh phúc. Đó cũng chính là sự chiến thắng của tinh thần Adam Smith để có một thị trường tự do, bình đẳng cho mọi thành phần xã hội, không phân biệt nguồn gốc sinh đẻ, quan điểm chính trị hay tôn giáo, cũng như thành phàn dân tộc, ở đó mọi người có thể đem hết sức lực, sự khéo léo, sáng tạo, cũng như tài sản và vốn liếng để kinh doanh, qua đó “bàn tay vô hình” sẽ đem lại nhiều của cải nhất cho quốc gia. Lực lượng nông dân được giải phóng này sau đó trở thành nguồn nhân lực không thể thiếu của cuộc công nghiệp hóa sắp tới của Phổ. Xem thêm Nước Đức thế kỷ XIX)

Các nhà lãnh đạo của Nhật Bản Minh Trị cũng đã rất khôn ngoan và thức thời khi tiến hành cải cách. Họ quyết định xóa bỏ vĩnh viễn giai cấp samurai là giai cấp độc quyền cai trị đất nước cha truyền con nối từ bao đời. Giai cấp này chiếm tỷ lệ khoảng 6% dân số. Một người dân thường trên đường đi nếu thấy một samurai đi ngược chiều, không dám nhìn thẳng mà chỉ biết cúi đầu nhìn xuống đất mà đi. Những nhà lãnh đạo của cải cách Minh Trị ý thức sâu sắc rằng, sức mạnh quốc gia xuất phát từ cả tập thể dân tộc, không phải từ một giai cấp đặc quyền nào, cho nên cần thiết phải mở cửa cho tất cả người dân có quyền đóng góp theo năng lực của họ, xóa bỏ mọi rào cản tâm lý và mặc cảm, thì quốc gia mới có sức mạnh tổng hợp của nó. Phải giải phóng tâm lý của họ là những “thần dân bị trị” bởi một giai cấp đứng trên họ có mọi quyền quyết định về vận mệnh họ. Đó cũng là một nhu cầu của một xã hội hiện đại không thể thiếu, phù hợp với tinh thần của Cách mạng Pháp là xóa bỏ ranh giới các giai cấp. “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, đúng như thế.

∗∗∗∗

Friedrich List

Thế kỷ XIX là “thế kỷ dài nhất” của lịch sử với nhiều cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra sôi động, đặc biệt ở các quốc gia như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, rồi lan tỏa tiếp đến phương Đông với Nhật Bản. Xin cho tôi nói thêm một chút ở chỗ này. Nói đến công nghiệp hóa không thể không nói đến nhà kinh tế và tư tưởng của công nghiệp hóa Friedrich List, một cái tên còn ít được nghe ở Việt Nam cho đến gần đây, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn lên nước Đức và cả thế giới lâu dài. Marx đã nhận định: “Chế độ ‘chuyên chế công nghiệp’ (industrial tyranny) của Anh trên thế giới là sự thống trị của ngành công nghiệp trên thế giới. Anh thống trị chúng ta vì ngành công nghiệp (của họ) thống trị chúng ta.” Làm sao để tìm lại sự cân bằng công nghiệp, đó là điều quan tâm hàng đầu của List. List không quan tâm đến cách mạng chính trị, mà quan tâm hàng đầu đến cuộc cách mạng công nghiệp của quốc gia.

Theo ông, tất cả các thành phần xã hội, giới trí thức, kỹ trị, nhà khoa học, doanh nhân, các chuyên gia, nhà giáo, bác sĩ, công nhân cổ trắng hay cổ xanh, đều đóng những vai trò quan trọng không thể thiếu trong cuộc tiến lên công nghiệp hóa của quốc gia. Họ là thành viên bình đẳng của nhà nước dân tộc (nation-state) đoàn kết lại mà List cổ xúy mạnh mẽ. List không phân biệt giai cấp, mà đối với ông chỉ có quốc gia. Giữa nhân loại và cá nhân là quốc gia. Ông chủ trương, các quốc gia đi sau cần học hỏi và thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp của mình theo hình ảnh của nước Anh, từng bước cải thiện nền công nghiệp và vươn lên bắt kịp. “Sự tăng trường công nghệ là nguyên cớ chính của tăng trưởng kinh tế.” List xem sự tiến lên của kinh tế thế giới có nguyên cớ trí thức (intellectual causation), tức ông xem kinh tế tri thức là nền tảng của sự tăng trưởng. Nhà nước cần thực hiện hàng rào thuế quan để bảo vệ nền công nghiệp non trẻ, và chỉ hạ xuống trong chừng mực nền công nghiệp trưởng thành. List kêu gọi tăng cường giáo dục và nâng cao ý thức dân tộc thống nhất (nationalism) làm động lực phát triển. Đối với nước Đức, ông kêu gọi thiết lập mạng lưới đường sắt nối liền các bang cô lập để thể hiện sự thống nhất quốc gia, cũng như xóa bỏ hàng rào thuế quan ngăn sông cấm chợ giữa chúng để thực hiện thị trường thống nhất.

Kinh tế thị trường đối với Adam Smith có tính rational, nhưng đối với List là plan rational, hợp lý trong kế hoạch, có sự sắp xếp chủ đích để tăng cường sức mạnh của thị trường chứ không phải để thủ tiêu nó. Trong nước, List vẫn chủ trương thị trường tự do, nhưng đối ngoại, ông chủ trương cần phải có “tổ chức“, kế hoạch, để điều tiết các quan hệ với thế giới bên ngoài. Đó cũng là hạt giống ý tưởng của những loại nhà nước kiến tạo phát triển sau này. Trong việc xây dựng mới quốc gia từ trạng thái lạc hậu, theo List, thì công nghiệp hóa, tính cởi mở với thế giới, và tình tự yêu nước, là những yếu tố cần phải quyện chặt với nhau. Công nghiệp hóa, cơ sở của sản xuất công nghiệp, nền tảng của khoa học, công nghệ của quốc gia, những thứ đó mới quan trọng và quyết định để đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững, hơn là sự phồn vinh, của cải nhất thời. Mọi sự tự-cô lập sẽ làm nguy hại cho sự tiến bộ vật chất và trí tuệ của quốc gia, cho cả tiến trình công nghiệp hóa. Từ thế kỷ XIX trở đi rất nhiều quốc gia phát triển sau đều chịu ảnh hưởng lớn của List. Đức, quê hương ông, cũng đi con đường của ông. Ngay cả Trung Quốc thời mở cửa, quốc gia tuyên bố theo chủ nghĩa Mác-Lê, cũng bị “List-hóa“.

 

Friedrich List (1789-1846)

Marx, trong “List Critique” (1845), phê phán List là người muốn tiếp tay cho giới tư sản, là “phát ngôn viên của tư sản Đức”, bác bỏ a priori mọi nỗ lực, chẳng hạn như của List, nhằm phát triển một học thuyết kinh tế phản ánh nhu cầu quốc gia của các nước kém phát triển trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường phát triển và coi đó là “phản động”, và “nationalism” (chủ nghĩa dân tộc của List) chỉ phục vụ quyền lợi giai cấp của giới tư sản thống trị làm cản bước cho một sự “giải phóng” đích thực người Đức như những “human beings”. Rhetoric của Marx là: Sự giải phóng của người Đức là sự giải phóng của con người (human beings). Triết học là cái đầu của sự giải phóng này và giai cấp vô sản là trái tim của nó. Triết học chỉ có thể được thực hiện bằng cách xóa bỏ giai cấp vô sản, và giai cấp vô sản chỉ có thể bị xóa bỏ bằng cách thực hiện triết học. (Hegel Critique về Triết học Pháp quyền của Hegel, cuối 1843-đầu 1844) Cho nên những phê phán của Marx đối với List là dễ hiểu.

Nhưng có một người nghĩ khác. Rosa Luxemburg (1871-1919), người phụ nữ cách mạng, một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc phong trào công nhân Đức vào cuối thế kỷ XIX, đầu XX, một con người cách mang rất cứng rắn nhưng có trái tim, đã nhìn thấy ở List một người ủng hộ chính phương pháp kinh tế thị trường để hiện đại hóa nước Đức, và bà đã dành cho ông những lời khen ngợi hào phóng. Bà thấy rằng List, không giống như những người tiền nhiệm hay những người đương thời theo chủ nghĩa dân tộc Đức, như nhà triết học duy tâm Fichte, người nổi tiếng với những lời kêu gọi lòng yêu nước của dân tộc Đức để chống lại cuộc chiến tranh của Napoleon, hiểu rất sáng sủa rằng “Cách mạng Công nghiệp ở Anh báo hiệu nhiều điều hơn là sự thay đổi về kinh tế; ông cũng hiểu rằng nó sẽ tạo ra tác động kinh tế, chính trị và văn hóa mạnh mẽ đối với nước Đức và phần còn lại của thế giới.” Luxemburg nhìn nhận thông qua công nghiệp hóa “các luồng chính trị, giáo dục, triết học và văn học” được khơi dậy mạnh mẽ ở Đức, “trên hết là nhu cầu thống nhất tất cả các vùng lãnh thổ của Đức… thành một ‘tổ quốc’ tư bản chủ nghĩa vĩ đại, thống nhất, thiết lập nền tảng rộng lớn cho sản xuất cơ giới và đại công nghiệp.”

Nhật Bản thời Minh Trị đã tiếp thu List rất sớm. Tác phẩm chính của ông (The National System of Political Economy, 1841) được dịch và xuất bản chỉ năm năm sau tác phẩm kinh điển Phồn vinh của các quốc gia của Adam Smith (bản tiếng Trung của List năm 1920).  Trong những giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, người Nhật chống lại chính sách mậu dịch tự do của Anh quốc vì đã nhìn thấy những thiệt hại cho Trung Quốc, nên rất tâm đắc ủng hộ List trong việc bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ bằng thuế quan cho đến khi các ngành này đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Thế kỷ XIX có thể nói là thế kỷ công nghiệp hóa trên phạm vi thế giới. Cuộc đầu tư cho sự cất cánh là đắt, là mồ hôi, là vắt óc, mò mẫm, thử-sai, là một cuộc cách mạng vĩ đại theo chiều sâu trong đời sống một dân tộc, là một cuộc thay đổi sâu sắc của bản thân mỗi cá nhân, của các tập thể, của cả quốc gia. Nhưng không đầu tư cho nó thì cái giá phải trả của sự tụt hậu còn đắt hơn nhiều lần. Các nhà nước Đông Á từ lâu đã nhận thức điều đó và đã thực hiện nó rất hiệu quả, mang lại sự đền bù là những phần thưởng to lớn không thể tưởng cho quốc gia có tác dụng thay đổi dòng lịch sử của mình mãi mãi. Hãy nhìn hai quốc gia nhỏ gần nhất chúng ta là Hàn Quốc và Đài Loan, với những cuộc hành trình thần tốcthông minh rất đáng ganh tỵ và hỏi tại sao chúng ta chưa làm được?

∗∗∗∗

Năm 2017, tức khoảng tám (8) năm trước, trong phần bổ sung quyển Nước Đức Thế Kỷ XIX với nhiều tư liệu lịch sử về Anh quốc và về cuộc Cải cách lớn của nước Đức, tôi có viết những dòng cuối cùng dưới đây như một sự đúc kết kinh nghiệm thế giới, xin phép được trích lại ở đây vì nội dung của nó rất có liên quan đến giai đoạn hiện tại của đất nước:

Tóm tắt lại từ những kinh nghiệm của Anh và Đức, cũng như các quốc gia Đông Á, một nền kinh tế muốn phát triển mạnh cần đáp ứng di chúc của Adam Smith, Francis Bacon, Friedrich List, và cũng như những kinh nghiệm từ các quốc gia thành công hay thất bại trong công nghiệp hóa thế kỷ 20:

    1. Một thể chế thích hợp, theo tinh thần Hãy để người ta làm – Laissez-faire – của Adam Smith: Cởi trói, bảo đảm bằng hiến pháp và luật pháp các quyền tự do căn bản, quyền tư hữu, sự bình đẳng, công bằng cho mọi công dân. Có nền văn hóa khoan dung, cởi mở và hướng đến học hỏi thế giới. Sự phát triển lực lượng sản xuất là thước đo tối hậu. Những gì kìm hãm cần phải được dỡ bỏ. Nhà nước bản thân nó trước hết phải là nhà nước đổi mới sáng tạo, dẫn dắt, thúc đẩy đoàn tàu cách mạng công nghiệp trong từng giai đoạn, không được phép là lực cản.
    2. Thực hiện cuộc công nghiệp hóa như đòn bẩy chủ lực theo tinh thần Friedrich List với đầy đủ các ngành công nghiệp nặng và nhẹ; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển; tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa doanh nghiệp, nhà khoa học, công nghệ, kỹ sư, thợ thủ công. Tạo ra một quốc gia sản xuất (manufacturing nation); khuyến khích sản xuất lớn, và luôn luôn cải thiện, đổi mới công nghệ.
    3. Tạo ra văn hóa đổi mới sáng tạo trong xã hội, niềm tin mạnh mẽ vào sự đổi đời của các nhân và quốc gia bằng khoa học, công nghệ và lao động sản xuất; phát triển mạnh mẽ khoa học và tri thức hữu dụng (Francis Bacon). Mở mang giáo dục thực nghiệm, kỹ thuật và giáo dục nghề. Đầu tư vào giáo dục các cấp, cơ sở hạ tầng tri thức dồi dào, phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, bảo tàng, thư viện. Cần có các đại học đầu tàu là trung tâm nghiên cứu đổi mới sáng tạo và khám phá, kết nối với các đại học nghiên cứu thế giới, luôn ở tuyến đầu của khoa học và công nghệ thế giới.
    4. Nâng cao vị thế xã hội của doanh nhân, nhà sản xuất, khoa học, công nghệ, kỹ sư, thợ thủ công xứng đáng với vai trò xã hội của họ. Khắc phục bệnh muốn làm thầy, làm quan, chỉ tay hơn là làm thợ ở các nước chậm phát triển hay bị tiêm nhiễm văn hóa nho giáo.
    5. Lãnh đạo trong tất cả các lãnh vực, chính trị, kinh tế, khoa học, giáo dục, văn hóa, đòi hỏi phải có tính tiên phong, ý thức sáng sủa về thời đại, có tầm nhìn tương lai, và tri thức về những gì đang và sẽ diễn ra trên thế giới và khu vực; ra sức học hỏi, tiếp thu những tiến bộ thế giới để dẫn dắt tập thể, quyết tâm không để thua kém hay lạc hậu.
    6. Cuối cùng nhưng trên hết, lãnh đạo và giới tinh hoa phải có khát vọng vươn lên và lòng yêu nước nồng nàn − linh hồn của mọi cuộc chấn hưng – quyết tâm đưa đất nước lên thành một quốc gia văn minh và phát triển; đặt quyền lợi tối thượng của quốc gia lên trên hết, và biết sống liêm khiết. Nhà nước phải có đạo đức nhà nước (state ethics) tạo được sự kính phục của nhân dân và thế giới.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, ở phương Tây cũng như Đông, trong tất cả sự vươn lên của các nền kinh tế lạc hậu, vai trò tích cực của nhà nước là hết sức quan trọng và quyết định.

Nói cho cùng, thể chế nào giải phóng các lực lượng sản xuất nhiều nhất, mạnh mẽ nhất, hỗ trợ họ khôn ngoan nhất, thể chế đó sẽ tạo nên phồn vinh cho quốc gia và quốc phòng vững mạnh nhanh nhất và hiệu quả nhất. Giải phóng các lực lượng sản xuất, chứ không phải kìm hãm chúng, là mệnh lệnh tối thượng của giai tầng lãnh đạo, bất cứ ở đâu, Đông cũng như Tây. “Theo quan điểm lịch sử duy vật chủ nghĩa”, Engels viết sau khi Marx mất, “điểm quyết định cuối cùng trong lịch sử là sản xuất (production) và tái sản xuất (reproduction) của đời sống thực. Marx và tôi không nói gì hơn.” (Engels thư cho Joseph Bloch, 1890. MEW, Bd 37, 463) Nghĩa là, giải phóng lực lượng sản xuất là khâu mấu chốt và tối hậu, là thước đo tính hiệu quả cho mọi thể chế và mọi thời đại.

Nếu ví thương trường là chiến trường thì các tướng lãnh chỉ huy không thể nào cứ từ chối sử dụng thuốc súng để vẫn xài cung tên mà có thể hy vọng chiến thắng và tồn tại được.

Không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc khi thấy đất nước cất cánh để sánh vai với các quốc gia hàng đầu thế giới và khu vực, thấy dân tộc rủ sạch mặc cảm chậm tiến.

Không có tủi hổ nào bằng tủi hổ khi thấy một dân tộc anh hùng tiếp tục bị lạc hậu, nghèo nàn, và bị các nền kinh tế mạnh hơn “xâu xé”.

Chúng ta phải thay đổi, thay đổi một cách toàn diện, thay đổi cả lịch sử 4000 năm, và tấm gương lịch sử của dân tộc Đức với sức truyền cảm mạnh mẽ của nó là rất cần được tham khảo cho những ai quan tâm đến tiền đồ của dân tộc.

Chúng ta quyết không để mất thêm một thế kỷ nữa!

(Nước Đức thế kỷ XIX)

— Hết trích dẫn —

Engels không đơn độc. List cụ thể hơn, dựa trên kinh nghiệm của nước Anh mà ông nói rất đáng học hỏi:

Lịch sử… dạy chúng ta rằng mức độ phúc lợi công cộng như vậy, cụ thể là trạng thái thịnh vượng của các nhà sản xuất (công nghiệp) và thương mại, chỉ đạt được ở những quốc gia có hiến pháp chính trị, cho dù mang tên cộng hòa dân chủ hay cộng hòa quý tộc, hay chế độ quân chủ hạn chế, đảm bảo cho cư dân của họ mức độ tự do cá nhân cao và an ninh tài sản, có nền hành chánh đảm bảo cho họ mức độ hoạt động và quyền hạn cao để phấn đấu cho sự thành công vì mục tiêu chung của họ và sự liên tục ổn định trong những nỗ lực này. (Friedrich List)

Nghe không khác Adam Smith lắm.

Xin xem đầy đủ Tiểu luận Nước Đức trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp thế giới trong sách Nước Đức Thế Kỷ XIX (ZENBOOKS, Nxb DÂN TRÍ, trang 297-348), được viết thêm nhân dịp quyển sách nhận được Giải Sách Hay năm 2017. 

Cũng như xin quý độc giả xem thêm bài viết gần mười bốn (14) năm trước: Cách mạng công nghiệp hay Tiêu vong, có nói về trường hợp Trung Quốc:

https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/cach-mang-cong-nghiep-hay-tieu-vong/

∗∗∗∗

Cách mạng công nghiệp Anh và ảnh hưởng

Để có một chút sinh động, tôi xin đính thêm vài tấm ảnh của Cách mạng công nghiệp Anh diễn ra khoảng 200-250 năm trước. Giới học giả kinh tế, lịch sử, đã tốn rất nhiều giấy mực để viết về sự kiện trọng đại này, và ảnh hưởng lâu dài của nó lên toàn thế giới. Những bức ảnh đó thuộc về DNA của sự tiến hóa có tính đột biến đáng ngạc nhiên của thế giới.

Ảnh đầu tiên là xí nghiệp (factory) xe sợi Shadwell Rope 1878, còn ảnh dưới là chiếc tàu khủng thời bấy giới có tên SS Great Britain có khả năng vượt Đại Tây Dương của người kỹ sư vĩ đại Isambard Kingdom Brunel đóng năm 1843. Tàu này cũng là prototype cho các loại tàu hiện đại sau đó. Ông cha ta đã thua Pháp ở những thứ này đây. Một người xe sợi trong xí nghiệp sử dụng máy hơi nước của James Watt, có công suất bằng khoảng hai ba trăm người trong các hộ sản xuất nhỏ, và một xí nghiệp với khoảng năm người sẽ có công suất bằng một nghìn người làm. Đó là một bước nhảy vọt lượng tử kinh khủng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh là một bước phát triển đột biến, tuy người ta vẫn có thể truy nguyên những sự phát triển thủ công âm ỉ qua nhiều thế kỷ ngày càng tinh vi hơn từ thời Trung Cổ, dưới tác dụng của khoa học Newton và triết lý Bacon, để cuối cùng dẫn đến đột biến. Thượng đế không cho con người máy móc, nhưng cho một bộ óc engineering tài tình để tự mình phát triển chuyển đổi lao động tay chân sang lao động máy. “Engineering is human.”

Hai ảnh dưới là của James Watt, người đã hoàn chỉnh cổ máy hơi nước của Newcomen làm cho nó kinh tế và sử dụng được rộng rãi trên thị trường, và Isambard Kingdom Brunel. Watt phát triển những đổi mới sáng tạo của mình trong workshop đặt tại một góc của trường Đại học Glasgow nơi Adam Smith giảng dạy, bởi vì ông không là thành viên của phường nghề nào, nên thời đó không được phép mở workshop tự do. Có thể nói, Watt là người cuối cùng đã gây ra cuộc cách mạng công nghiệp thế giới. Smith đã chứng kiến cảnh phi lý đó, và đã đưa vào tác phẩm của ông đòi hỏi cho “Tự do cho công nghiệp và thương mại”.

   

 James Watt (trái) và Isambard Kingdom Brunel

Thi ca và đồng lúa, dù quan trọng đến đâu trong đời sống của một dân tộc, nhưng tự chúng không tạo ra sắt thép, công nghệ. Tuy nhiên khi quốc gia được tổ chức hợp lý và khai sáng, sẽ có những nhà công nghiệp vĩ đại xuất hiện theo tiếng gọi thời đại. Nước Đức tự hào là “Dân tộc của các nhà thơ và nhà tư tưởng”, nhưng chỉ như thế thôi thì không thể sống và cạnh tranh nổi với các cường quốc đang lên. Sau khi thua Napoleon, và nhà nước Phổ tiến hành cuộc cải cách lớn giải phóng sức lao động của mọi người dân, hàng loạt các nhà công nghiệp tài giỏi đã xuất hiện: Borsig, Krupp, Siemens, Thyssen, Zeiss, Bayer, Engelhorn, Linde, Bosch, Nicolaus Otto, Benz, Daimler … và nhiều người trong đó đã tạo ra những đại công ty (Konzerne) hoạt động ở tầm cỡ lớn, làm hình mẫu của các zaibatsu và chaebol sau này. Đài Loan hơi khác một chút, vì lãnh đạo chính trị của họ sợ một sự tập trung quyền lực lớn vào các đại công ty nên không khuyến khích các đại công ty hình thành. TSMC là một ngoại lệ.

Nhà máy cán thép ở Đức trong cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XIX. Tranh của họa sĩ Adolph von Menzel khoảng 1872-75

Dưới đây là hai bức tranh của Berlin và Osaka đầu thế kỷ XX, nơi Einsttein và Yukawa từng sống và giảng dạy, trong quá trình công nghiệp hóa. Về nhiều mặt, chúng trông khá giống nhau, chỉ khác nhau ở điểm, Berlin trông phát triển nhiều hơn, “già dặn” hơn Osaka. Thực tế khoảng cách trung bình của công nghiệp hóa giữa Nhật Bản với các quốc gia phương Tây chỉ khoảng năm mươi năm, như những nhà cải cách của chuyến đi Iwakura đã đánh giá. Nhưng về cơ bản, Nhật Bản phát triển rất giống phương Tây, không thể khác, vì đó là một quỹ đạo chung tất yếu.

 

Berlin 1920 (trên) và Osaka 1929

Bức tranh dưới đây mô tả đoạn đường sắt Manchester-Liverpool ở Anh là công trình đầu tiên tiên trên thế giới, được khánh thành vào ngày 15 tháng 9 năm 1830 nối liền các thị trấn Manchester, trung tâm của cách mạng công nghiệp Anh, và Liverpool, thành phố cảng biển giao thương với cả thế giới, dùng sức mạnh hơi nước của James Watt thay vì ngựa kéo như trước đây. Nó vận chuyển người, hàng hóa và thư, với chi phí rẻ hơn và dễ dàng hơn, báo hiệu sự kết thúc của ngành vận tải kênh đào, và cuộc cách  mạng vận tải nói chung. Những chiếc xe lửa thô sơ nhưng vô cùng hiệu quả, góp phần làm nên cuộc cách mạng công nghiệp Anh.

Còn bức tranh dưới mô tả sự khởi đầu của dịch vụ đường sắt đầu tiên của Nhật Bản, từ Shimbashi, Tokyo, đến Yokohama, vào năm 1872, nghĩa là chỉ 4 năm sau khi chính quyền Minh Trị lên cầm quyền. (Minato City Local History Museum) Tại Đức, tuyến đường xe lửa đầu tiên được khai trương là giữa Nürnberg và Fürth năm 1835, dài 9km, xe chạy mất 9 phút.

Câu chuyện đường sắt Nhật Bản đã bắt đầu từ cuối thời Mạc Phủ. Khoảng một năm sau khi bắn vào vịnh Tokyo, Phó đề đốc Matthew Perry trở lại, lần này tại Yokohama, với một món quà đặc biệt cho Mạc phủ, một đầu máy xe lửa hơi nước cỡ nhỏ. Theo lời kể, ông cho đặt một đường ray tròn dài khoảng 100 mét bên cạnh bờ biển, và ra lệnh cho kỹ sư của ông chất than vào đầu máy xe lửa và cho xe chạy. Nó chạy với tốc độ khoảng 32 km/giờ. Quan chức Mạc phủ Kawada Hashinosuke đã rất vui mừng khi ông thử nghiệm chuyến đi trên chiếc xe thu nhỏ, tuyên bố rằng nó “rất thú vị” và ca ngợi tốc độ của đầu máy xe lửa.

Tới thời Minh Trị tiếp theo, Ōkuma Shigenobu, thứ trưởng của cả Bộ Các vấn đề công cộng và Bộ trưởng Bộ Tài chính, cũng là người sau này thành lập Đại học Waseda, được giao phó đảm nhiệm việc xây dựng ngành đường sắt. Shigenobu chủ trương xây dựng hệ thống đường sắt càng nhanh càng tốt, bên cạnh ưu tiên phát triển tàu chiến của quân đội. Kỹ sư đường sắt người Anh Edmund Morel được thuê giám sát việc xây dựng đường ray, trong khi chi phí phần lớn được trang trải bằng các khoản vay từ Anh, và đầu máy hơi nước được sản xuất tại Anh.

Người Nhật có óc tò mò rất lớn. Có lẽ xuất phát từ văn hóa võ sĩ đạo. Không tò mò thì sẽ có nguy cơ bị đối phương gây bất ngờ và phải trả giá lớn. Tò mò là điều kiện tiên quyết để phát triển. Người châu Âu rất tò mò, và giàu trí tưởng tượng. Họ cũng có giới hiệp sĩ, và đầy chiến đấu tính. Suốt thời gian Tokugawa, sự liên lạc với phương Tây bị giới hạn tối thiểu và duy nhất vào Hà Lan, và các giao dịch đều bị kiểm soát gắt gao chưa từng thấy. Mọi sự vi phạm có thể bị trả giá bằng chính mạng sống. Nhưng dù khó khăn như thế, giới tinh hoa Nhật Bản vẫn luôn luôn tìm cách để hiểu biết về những diễn biến khoa học công nghệ ở phương Tây, tạo sự khai sáng cho mình. Từ đó hình thành cái gọi là Lan học. Kiến thức khoa học phương Tây gần như một điều bắt buộc để một người trở thành trí thức. Cho nên vào thời mở cửa của Minh Trị, giới tinh hoa không quá bỡ ngỡ trước khoa học công nghệ của phương Tây. Chính họ đã làm cho cuộc mở cửa dễ dàng hơn. Họ hồ hỏi tập trung vào học hỏi khoa học phương tây như một điều đương nhiên. Muốn có một quốc gia mạnh để đương đầu với phương Tây, và giàu có như họ, mà không có khoa học công nghệ ư? Người Nhật lo cho vận mệnh đất nước họ là trên hết. Đất nước là thiêng liêng đối với họ, và họ không cho phép kẻ thù dẫm chân lên đó. Họ sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng. Thời cuối Mạc phủ, nhiều đoàn thanh niên đã từng chấp nhận trả giá bằng mạng sống khi họ tìm cách ra đi bí mật để học hỏi phương Tây, mình gọi là “tìm đường cứu nước”. Một trong những nhóm đó là “Trường Châu Ngũ Kiệt” của năm thanh niên samurai thuộc Phiên Chōshū tìm đường sang Anh để học khoa học công nghệ, trong đó có Itō Hirobumi sau này trở thành vị thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

Nhật Bản lĩnh hội nhanh nhất nguồn gốc sức mạnh quân sự của phương Tây, rằng đằng sau sức mạnh đó là “tinh thần văn minh” phương Tây, như nhà khai sáng Fukuzawa nói, bao gồm nhiều thứ: tinh thần khoa học, tình thần độc lập của cá nhân, giáo dục hiện đại, thể chế và các định chế thích hợp cho sự phát triển khoa học, công nghệ. Và sau chuyến đi tìm khai sáng lịch sử Iwakura, họ tức tốc tiến hành canh tân toàn diện, mà công nghiệp hóa là khâu quyết định nhất. Họ tiến hành cuộc cải tổ toàn diện nhất theo mô hình phương Tây, chứ không phải như Trung Quốc chỉ lo tập trung vào việc xây dựng một số xưởng đóng tàu và chế tạo súng mà vẫn giữ lại cái khung văn hóa cũ, đặc biệt hệ thống giáo dục và thi cử quan trường, và cho rằng thế là đủ, cho đến khi họ bị Nhật Bản đánh bại nặng nề trong chiến tranh 1894-95. Lúc đó họ mới thức tỉnh và chịu thay đổi. Ý thức chậm thường phài trả bằng cái giá đắt.

∗∗∗∗

Những tiếng gọi cách mạng công nghiệp của tôi, cũng như về vai trò then chốt của khoa học, công nghệ và đại học nghiên cứu hiện đại trước đây có thể lạc lỏng, nhưng giờ hy vọng có thể trở thành những vấn đề trung tâm và cấp bách của sự phát triển giai đoạn mới của Việt Nam, ít ra về mặt hình thức. Đáng lẽ điều đó đã xảy ra từ lâu. Văn hóa khoa học mà mức độ hiện nay còn quá khiêm tốn, phản ảnh sự thờ ơ nhất định của quốc gia và của cả giới tinh hoa đối với khoa học. Văn hóa và tâm lý (mentality) hiện nay phản ảnh Việt Nam mới chỉ là xã hội nông nghiệp có một nền sản xuất công nghiệp hiện đại nhỏ, hoặc hơn một chút, cũng như mới trở thành xã hội thương mại (commercial society) còn ở mức độ khiêm tốn theo khái niệm của Adam Smith hai trăm năm mươi năm trước. Việt Nam phần lớn đã bỏ qua hầu hết các cuộc cách mạng căn bản về khoa học và công nghiệp của thế giới, mà cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên là về cơ khí rất căn bản ở Anh, như những lực đẩy của kinh tế thế giới. Chúng ta lạc hậu với phương Tây một trăm năm trước đã đành, mà nay chúng ta cũng đi rất chậm so với các quốc gia phát triển trong vùng, chưa tích hợp được những kinh nghiệm quý báu và khai phá của họ vào phát triển của Việt Nam. Công nghệ cao không phát triển trong giới doanh nhân. Số lượng tỷ phú Việt Nam từ lâu vẫn không tăng lên khỏi con số 6, như vừa rồi tụt xuống số 5, và tài sản trung bình của mỗi tỷ phú chỉ vài tỷ đô la Mỹ. Họ còn khá “nghèo” so với các đồng nghiệp của họ ở những quốc gia phát triển. Vì sao? Vì công nghiệp và công nghệ cao hầu như chưa thuộc phạm trù kinh doanh và nói chung chưa được phát triển ở Việt Nam. Địa ốc hay những ngành phi-sản xuất chỉ là cái ao, như nhà văn Anh Daniel Defoe nói, công nghệ và nhất là công nghệ cao mới là biển cả. Một quốc gia phát triển khoa học sẽ nhìn thấy cả thiên hà cơ hội cho sáng tạo, kinh doanh và làm giàu, khác với xã hội nông nghiệp.

Để có tăng trưởng kinh tế tốt, Adam Smith nhấn mạnh lên bốn yếu tố: tài nguyên, khuôn khổ hiến pháp, động lực tăng trưởng và cơ chế tăng trưởng. Cơ chế tăng trưởng ở đây là sự phân công lao động, tượng trưng cho công nghiệp ở nhiều cấp độ khác nhau, trong khi động lực tăng trưởng là cái tâm lý nằm ở con người, luôn luôn muốn “cải thiện cuộc sống” của chính mình, một động lực theo đuổi cá nhân “từ trong bụng mẹ cho đến khi nằm xuống mồ”, cũng như “khuynh hướng thương mại, trao đổi và mua bán” tự nhiên của con người sẽ thúc đẩy cơ chế tăng trưởng, miễn là họ cảm thấy có đầy đủ tự do, công bằng, an toàn và tài sản được bảo đảm, một vấn đề thuộc về tính chất của hiến pháp. Đối với Smith, trong khi động lực tăng trưởng nằm trong con người là vô tận và phổ quát, thì yếu tố hạn chế hay phát huy tăng trưởng nằm ở hiến pháp. Chủ nghĩa tự do (liberalism) đóng vai trò quan trọng trong việc giải phóng sáng kiến và năng lượng kinh tế, và tăng trưởng kinh tế. Lợi ích cá nhân (self-interest) cần được nhìn nhận như là cơ sở thích hợp của chính sách kinh tế và chính trị, phải được bảo đảm một cách hợp lý trên một cơ sở luật pháp thích hợp. Những động cơ tự phát triển của cá nhân ở Việt Nam đã bị kềm hãm quá lâu nên cần được đánh thức, cỗ vũ một cách hệ thống, bằng hiến pháp và các định chế kinh tế, tài chính phù hợp.

Với văn hóa truyền thống sâu đậm, chúng ta thường thích nghe “Dichtung” (“Thi ca”) bay bổng và bùi tai, theo nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng, hơn là nghe “Wahrheit” (Sự thật) (Goethe) về những vấn đề  thực tiễn cải tạo quốc gia và những thách thức cũng như cơ hội lớn nhất của thời đại chờ đợi. Chúng ta giống như những người thủy thủ mải mê nghe tiếng hát của các nàng tiên cá mà chểnh mảng trong việc lèo lái con thuyền vận mệnh vượt qua các tảng đá hiểm nguy của “vô minh”. Chúng ta không thể yêu nước trong sự vô minh như những bài học quý giá của Nhật Bản từ thời Tokugawa để lại. Một sự thức tĩnh lớn là cần thiết. Người Nhật không phải đổi mới từ những yếu tố bên ngoài thuần túy có tác dụng như chất xúc tác, mà sâu xa chính từ sự thức tỉnh bên trong và lòng tự trọng, danh dự dân tộc thiêng liêng. Văn hóa nho giáo dạy con người muốn làm thầy, làm quan, và văn hóa nông nghiệp làm ăn nhỏ còn ăn sâu trong tiềm thức chúng ta. Văn hóa đó không phù hợp với văn hóa khoa học và công nghiệp là văn hóa đòi hỏi con người phải luôn luôn dấn thân bằng cả cái đầu lẫn tay chân, bằng mồ hôi, bằng tri thức hiện đại cần phải học, bằng năng lực điều khiển khoa học công nghệ và máy móc để tạo ra của cải cho con người.

Trung Quốc của quá khứ

Trong một đoạn văn nổi tiếng, người đứng đầu phái bộ Dòng Tên ở Bắc Kinh, Matteo Ricci, đã viết vào khoảng năm 1600 rằng ở Trung Quốc:

“Chỉ những người có bằng tiến sĩ hoặc bằng cử nhân mới được phép tham gia vào việc cai quản vương quốc … không ai sẽ nỗ lực để đạt được trình độ thành thạo về toán học hoặc y khoa nếu họ có bất kỳ hy vọng nào trở nên nổi bật trong lĩnh vực triết học [tức kinh điển gồm tứ thư ngũ kinh]. Kết quả là hầu như không ai dành hết tâm huyết cho những nghiên cứu này … việc nghiên cứu toán học và y khoa bị coi nhẹ, bởi vì chúng không được thúc đẩy bởi danh dự như nghiên cứu triết học”.

Thế kỷ 18 của Trung Hoa là thế kỷ phục hồi kinh điển học. Vua Khang Hy cho thành lập Hàn lâm viện Toán tại Bắc Kinh năm 1713 để làm sống lại toán học cổ truyền Trung Hoa. Ông từ chối các khái niệm toán đại số của Descartes, và từ sau 1723 không một tác phẩm toán học nào của châu Âu được dịch sang tiếng Trung Hoa, cho đến chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1839-1842), nghĩa là hơn một trăm năm sau. Các loại toán học vi tích phân châu Âu không lọt vào Trung Hoa cho tới giữa thế kỷ 19. Vua Khang Hy rất hãnh diện và đồng tình với quan điểm của các cha Dòng Tên cho rằng đại số học, algebra, “đến từ phương Đông”, nhưng ông không hiểu rằng các cha Dòng Tên chỉ muốn nói toán đại số đã được du nhập vào châu Âu từ các nước Ả Rập ở phương Đông! Trung Hoa thiếu cách tư duy phân tích của châu Âu. Hình học Euclid cũng bị dang dở đến năm 1865. Người Trung Hoa có khuynh hướng ‘mì ăn liền’, dùng những phép tính cổ truyền của họ để ra kết quả nhanh mà quên đi cái lợi lâu dài của các phương pháp toán học toàn diện phương Tây.

Một sứ thần Trung Hoa (Liu Xihong, Lý Hồng Chương) tại Đức 1877-1878, lúc này Đức đã trở thành cường quốc khoa học và quân sự, khi thăm hàn lâm viện đã phê phán những gì ông thấy là “sự học (tập trung) thực hành vô vị” và cho rằng đó chỉ là một “Sảnh đường của những người thợ thủ công” hơn là một “Hàn lâm viện cách vật trí tri” cao cấp. Loại giáo dục đó theo ông không thích hợp cho giới nho thần, mà chỉ có sự học Trung Hoa thể hiện trong các kỳ thi tuyển nho quan truyền thống mới là ưu việt. Ông đã sai lầm lớn, và Trung Quốc phải trả giá lớn. Chú ý rằng 1877-78 cũng là thời gian năm năm sau chuyến đi của Sứ mệnh Iwakura của Nhật Bản tại Mỹ và châu Âu để tìm chiến lược canh tân.

 

Cái nghèo vật chất tuy không thể chấp nhận được, vì thế Adam Smith mới viết Phồn vinh của các quốc gia, nhưng cái nghèo tri thức mới đáng lo ngại hơn, không hiểu biết làm sao thế giới đã trở nên giàu có, làm sao các quốc gia “đồng văn đồng chủng” ở châu Á lại có thể như đàn sếu lần lượt cất cánh khỏi cánh đồng bằng nghèo khó như thế, và những điều đó không phải bí mật mà diễn ra ngay trước mắt chúng ta. Không có đủ tri thức, chúng ta khó có thể biến được giấc mơ phồn vinh hay hóa rồng thành sự thật, thậm chí cũng thiếu luôn cả những giấc mơ. Những nguyên nhân nghèo khó triền miên là sản phẩm của cái mindset cũ, trong đó khoa học công nghệ hầu như không có vai trò gì đáng kể, tâm lý xã hội nông nghiệp, sự thờ ơ, cơ chế xã hội lạc hậu. Muốn giải quyết chúng, theo cái nhìn của Einstein, Vệt Nam cần một mindset mới. Thay đổi mindset cũng có thể là một cuộc “cách mạng” tự nó, có lẽ quan trọng hơn hết, để mở đường cho mọi sự thay đổi khác theo sau.

Trong mấy thập niên qua, đâu là tiếng gọi chiến đấu cho một cuộc cách mạng công nghiệp, hay đâu là một loại “Tân thư” cho một cuộc thay đổi đột biến bằng khoa học, công nghệ có ảnh hưởng? Đâu là các giáo sĩ rao giảng đức tin của một Phúc Âm mới? Đâu là một Tuyên ngôn yêu nước đề cao khoa học, công nghệ là con đường phải đi để dân giàu nước mạnh, như phong trào Ngũ Tứ Trung Hoa đã từng làm? Đâu là một sự thức tỉnh, khai sáng, giác ngộ về cái đích hạnh phúc mà dân tộc phải phấn đấu đạt tới? Đâu là tinh thần và tri thức của Phồn vinh của các quốc gia của Adam Smith? Đâu là những doanh nhân đẳng cấp xây dựng cột trụ kinh tế-khoa học-công nghệ của một quốc gia mới, như các konzerne, zaibatsu và chaebol? Văn hóa được nói nhiều, nhưng đâu là việc xây dựng một văn hóa khoa học cho sự phát triển trí tuệ Việt Nam như bào thai để nuôi dưỡng cuộc cách mạng công nghiệp?

 

Một câu chuyện về văn hóa khoa học

Năm 1872, tức chỉ vài năm sau cuộc Nội chiến, một nhà “truyền giáo” khoa học đại chúng nổi tiếng Mỹ, Edward L. Youmans, đã tự đặt câu hỏi:

Sâu xa hơn tất cả các câu hỏi về Tái thiết, Quyền bầu cử và Tài chính là câu hỏi, bộ óc ngày càng phát triển của dân tộc sẽ cần nền văn hóa nào?

Câu trả lời của ông: “Văn hóa khoa học”. “Nguyệt san khoa học đại chúng” của ông lúc đó bán ra mỗi kỳ 10.000 (!) số và đã đem lại luồng gió mới cho giới trí thức Mỹ với một dân số lúc bấy giờ là 38 triệu! Chúng ta có đặt câu hỏi tương tự như thế chưa, và với số dân 100 triệu, Việt Nam có tạp chí khoa học đại chúng nào có số lượng ấn bản so sánh được hay chưa?

 

Cách mạng công nghiệp là một trận chiến mới, không tiếng súng, nhưng có khả năng bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn bao giờ hết. Thua cái này là sẽ thua tất cả. Các thế hệ hôm nay phải thể hiện mình là hậu duệ của một dân tộc anh hùng và chiến đấu trong một trận chiến mới mà kẻ thù đôi khi bắt đầu là chính sư trì trệ và vô minh ngay trong lòng chúng ta. Hãy định hình con đường của mình và của dân tộc không bằng tiếng súng, mà bằng trí tuệ như vũ khí sắc bén của nhận thức. Chờ cho có tiếng súng mới nhận thức là sẽ thua. Chờ cho kẻ thù tiến vào bờ cõi là sẽ quá trễ. Chúng ta phải bắt đầu bảo vệ đất nước bằng công nghiệp hóa ngay từ hôm nay và bây giờ. Đó là cuộc chiến đấu đang diễn ra trên khắp hành tinh. Cần phải thấy cái logic giữ công nghiệp hóa và sự giàu mạnh của đất nước. Tố chất anh hùng giờ cần được thể hiện bằng sự thông minh và bản lãnh của các chiến binh trong mặt trận mới. Mỗi chiến binh cần thể hiện hùng khí của một dân tộc chiến đấu nghìn năm. Hãy biến sức mạnh tinh thần và trí thông minh thành các thành quả khoa học công nghệ phục vụ con người. Francis Bacon đã kêu gọi bốn thế kỷ trước. Trên hết, và căn bản, lòng yêu nước phải tràn đầy như tsunami để không khó khăn nào ngăn cản được bước tiến của ta đi. Nếu nói “yêu nước là yêu công nghiệp hóa” thì thô thiển, nhưng yêu nước trong thời đại này mà không có công nghiệp hóa là sống trên mây, đúng với tinh thần của Friedrich List. C.P. Snow cho rằng, “Hai nhóm đối lập: ở một cực chúng ta có các nhà trí thức văn chương, ở cực kia là các nhà khoa học, và đại diện nhất là các nhà khoa học vật lý. Giữa hai cực là một vực thẳm không hiểu nhau.” Ở Việt Nam, nhóm thứ hai và ảnh hưởng của nó hãy còn hết sức yếu.

Người Việt Nam dường như sớm quên “1000 năm đô hộ giặc Tầu, 100 năm đô hộ giậc Tây”, hay chỉ nhớ một cách hình thức, không như người Hàn Quốc biến sự tủi nhục thành hành động đổi đời. Chúng ta sống tự mãn, và coi như chuyện đương nhiên, rằng hòa bình, độc lập của Việt Nam là vĩnh cữu.

 

Một câu chuyện giáo dục yêu nước kiểu Pháp

Câu chuyện này tôi đã kể đâu đó, giờ xin kể lại từ bộ nhớ. Có một đoàn khách đến thăm một trường trung học Pháp ở một tỉnh nào đó, thấy trên hành lang có trưng bày trong tủ kính cái nón đầu có mũi nhọn của lính Đức. Ông hỏi vị hiệu trường tại sao? Vị này trả lời: Để cho đám học trò của tôi đừng quên sự tủi nhục mà ráng học hành cho nghiêm túc.

Theo cách này, Việt Nam có lẽ cần trưng bày nhiều loại nón, của Tàu, Tây, Nhật, và nhiều thứ nữa trên hành lang các trường để giáo dục lòng yêu nước như vị hiệu trưởng kia làm, và yêu nước thì nên biết phải làm gì để ngăn ngừa lịch sử có thể tái diễn. Lòng yêu nước không được giáo dục đúng cách và có thực chất sẽ mai một và vô ích, biến thành sáo ngữ, không ích lợi gì cho quốc gia. Giáo dục có thể dư thừa những cái quốc gia không cần, nhưng cái quốc gia cần thì lại không có. Trung Quốc đã đầu tư làm một cuốn phim về nước Đức và sự vươn lên của họ bằng khoa học công nghệ, nghiên cứu, để giáo dục cho toàn dân họ. Quyển sách Nước Đức Thế kỷ XIX của tôi, được Giải Sách Hay 2017, chính là quyển sách nói về sự vươn lên của Đức bằng khoa học, công nghệ và giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học. Sách in được khoảng bốn lần, lần cuối 2019, sức tiêu thụ khiêm tốn, và từ hơn năm nay đã bán hết mà chưa có cơ may được tái bản.

Ý thức kinh nghiệm lịch sử hiện nay ở Việt Nam là còn rất ít, kềm hãm tầm nhìn đối với những vấn đề then chốt của Việt Nam. Các kinh nghiệm vô cùng quý báu của các quốc gia Đông Á xung quanh chưa thấy có ảnh hưởng lên nhiều sự phát triển của Việt Nam. Trong khi đó, Nhật đã bắt chước phương Tây, rồi đến lượt Hàn Quốc, Đài Loan, cả Trung Quốc bắt chước Nhật. Nhưng họ không dừng ở imitation thụ động, mà tích cực tiến lên bước innovation như ý tưởng của List, và cả một đàn sếu lần lược cất cánh bay cao. Bắt chước không có gì xấu hổ. Tất cả những cuộc canh tân đều bắt đầu bằng bắt chước. Các quốc gia lục địa châu Âu, và cả Mỹ cũng bắt chước Anh. Nhật Bản tự nhận: Họ đã học Trung Hoa 1000 năm, nay họ học phương Tây là chuyện bình thường. Chỉ xấu hổ khi không chịu học để mình bị tụt hậu.

∗∗∗∗

Trong context công nghiệp hóa, thiển nghĩ những tuyên bố của ông Tô Lâm là “đúng hướng”. Nền tảng của sự giàu có lâu dài không phải nằm ở tài nguyên, đất đai, mà ở năng lực sản xuất công nghiệp của quốc gia, và năng lực này phải luôn luôn đổi mới. Sản xuất công nghiệp là những cổ máy quay tiền. Các nhà máy chế tạo không những đóng góp vào sự phồn vinh, giảm sự lệ thuộc nước ngoài, mà chúng còn là những chướng ngại vật, là “pháo đài” chống lại sự xâm nhập của tham vọng nước ngoài, bảo vệ độc lập tư do cho đất nước.

Nhưng để thực hiện agenda của ông, nhà nước cần có một lực lượng nhà kỹ trị gồm những nhà khoa học trong cũng như ngoài nước am hiểu tình hình phát triển khoa học công nghệ thế giới, có tầm nhìn và quan hệ tốt với thế giới, có năng lực và xác định chiến lược tiến hành công nghiệp hóa để tiến lên và bắt kịp. Cần đưa nhiều nhà khoa học vào bộ máy nhà nước mà không hành chánh hóa họ, và để họ tự do hoạt động phù hợp với nghề nghiệp của họ. Khoa học cần khí trời của tự do, tự chủ và liêm chính để phát triển. Nhà nước nên dành cho họ qui chế độc lập, và an toàn chính trị để họ hoạt động lâu dài thoát khỏi “tư duy nhiệm kỳ” và được thù lao theo chế độ meritocracy.

Việt Nam rất cần tham khảo nghiêm túc các mô hình phát triển công nghệ của Hàn Quốc và Đài Loan cũng như các chính sách khoa học công nghệ cụ thể của họ. Kể cả của Trung Quốc cạnh chúng ta. Có những quan ngại cho rằng, giới này ở Việt Nam có thể còn nhỏ bé so với yêu cần mà sứ mệnh đặt ra cho họ, vì họ không được đào tạo và rèn luyện một cách cạnh tranh và không được sử dụng đúng mực nên chưa được phát triển, tri thức chưa được xem là sức mạnh, thực tế người trí thức có ít cơ hội để phát triển và thăng tiến. Nhưng chính trị không có khoa học làm nòng cốt là thiếu căn bản, là yếu ớt, nếu không muốn nói là bế tắt, khoa học không có chính trị hỗ trợ là đình trệ. Xin xem bài Cuộc hóa rồng và giới tinh hoa kỹ trị tôi viết cho báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần đầu năm 2021 về chủ đề này.

Nhà nước cần xây dựng một số định chế để thực hiện chương trình công nghiệp hóa, cần có những đại học nghiên cứu hiện đại phát triển hòa nhập vào đại học thế giới, và các viện khoa học công nghệ theo mô hình của Hàn Quốc (KIST và KAIST) hay Đài Loan (ITRI) như loại mát tạo nhịp tim. Cần nâng cấp đại học và trình độ của lực lượng giảng dạy và nghiên cứu. Nghiên cứu phải là phẩm chất hàng đầu của lực lượng giảng dạy mà nếu không có thì đại học đánh mất vai trò khám phá cho tương lai mà chỉ lập lại kiến thức của quá khứ. Không có nghiên cứu sâu, khó có các startup có giá trị cao. Không có đại học nghiên cứu phát triển, sẽ không đào tạo được lớp lãnh đạo trẽ có năng lực tư duy và giải quyết vấn đề của xã hội, quốc gia khó có đổi mới, lại càng khó tiến lên “bứt phá”. Các công nghệ cao ở Thung lũng Silicon có tính chất tạo nên sự tăng trưởng theo hàm mũ (exponential), gọi là bứt phá, xuất phát từ những nghiên cứu sâu. Trên hết và trước hết, bản thân nhà nước cũng phải là nhà nước đổi mới sáng tạo, một nhà nước entrepreneurial, biết “kinh doanh” khôn ngoan ở cấp quốc gia trong vai trò lèo lái và tầm nhìn.

Phòng đọc sách minh họa cuộc cách mạng đọc của Đức thế kỷ XIX. (Tranh của tác giả Heinrich Lukas Arnold, 1815-1854)

Một yếu tố khác. Cách mạng công nghiệp luôn luôn đi kèm với một loại cách mạng khác không thể không có: cách mạng học (learning revolution), và gắn liền với cách mạng đọc. Rõ ràng, không thể có cách mạng công nghiệp đòi hỏi nhiều tri thức mà không có “deep learning”. Có quốc gia cách mạng học đi trước như Nhật Bản, hoặc đi song hành như Đức. Văn hóa học ở châu Âu luôn luôn là phổ biến và lâu đời, nhưng đêm trước của cuộc cách mạng công nghiệp Anh, quốc gia này có không khí học sôi nổi, thể hiện rõ nét qua các cafe houses. Khi cuộc cách mạng công nghiệp được kích hoạt, nó sẽ tự động kéo theo theo cuộc cách mạng học, như trong trường hợp Hàn Quốc. Yangban, giai cấp nho giáo lãnh đạo lâu đời ở đất nước kim chi, nhưng cuối cùng cũng không cưỡng lại được sức hút của cách mạng công nghiệp của Park Chung Hee. Ông quả thật có thể được ví như thần Jupiter trong chuyện thần thoại La Mã, tạo ra sấm sét nhưng cũng đem lại sự vồn vinh vĩnh cữu cho quốc gia như được truy rèn trong lửa đỏ của tri thức. Ở Việt Nam sự vắng mặt công nghiệp hóa ở quy mô đáng kể đã làm “ùn tắc” sự phát triển lực lượng khoa học công nghệ, vì không có sự thu hút đáng kể lực lượng này ở đầu ra.

Có thể nói như Galilei, cách mạng công nghiệp giống như một loại Phúc Âm được viết bằng những ký tự và định luật khoa học, kỹ thuật. Ai muốn biến Phúc âm thành phước lành cho xã hội, người đó cần phải đọc được các ký tự và định luật kia. Hiện thời văn hóa học và văn hóa đọc của Việt Nam chưa phải là cao, nếu không muốn nói là còn rất thấp, so với nhu cầu của cách mạng công nghiệp. Chúng ta phung phí thời gian và tâm trí một cách đáng sợ.

∗∗∗∗

Nếu tôi nói có dài, là để biện luận với sự nhấn mạnh cho công nghiệp hóa, đồng nghĩa với biện luận cho sự giàu có quốc gia. Công nghiệp hóa là chủ đề mà không ai có thể làm ngơ nếu muốn có dân giàu nước mạnh, “phú quốc cường binh” (fukoku kyohei) như khẩu hiệu của người Nhật. Chúng ta sẽ không thể giải thích được sự phồn vinh của quốc gia hay thế giới mà không nêu ra yếu tố công nghiệp hóa như chìa khóa. Đất nước không thể ra khỏi bẫy thu nhập trung bình một cách bền vững nếu không thực hiện triệt để công nghiệp hóa. Cho thuê đất và nhân công giá rẻ chỉ là giải pháp tạm thời của mọi cuộc công nghiệp hóa, cần thiết trong một giai đoạn để học hỏi, nhưng không phải là giải pháp bền vững. Không quốc gia nào phồn vinh bền vững mà chỉ dựa vào lực lượng FDI. Lực lượng này đến rồi có thể đi. Họ không phải là tài sản của quốc gia.

Tôi viết những dòng trên cũng như những dòng dưới đây trong cảm xúc về Xuân, một phần của đất trời, nhưng phần lớn từ một niềm hy vọng một mùa xuân mới của đất nước có thể đang manh nha, tuy chỉ còn trong ý tưởng, và tuy còn nhiều khó khăn thử thách trước mặt. Với Cảm nghĩ đầu Xuân, tôi muốn chia sẻ với anh chị một số ý kiến về con đường trải thảm đỏ đang chờ đón Việt Nam đến vinh quang, và một số suy nghĩ critical về những khó khăn còn ở trước mặt. Nói như Lincoln, chúng ta phải sử dụng lý tính tỉnh táo để tránh rơi vào bẫy của “sự cuồng nhiệt”.  Chúng ta không chỉ có thi ca, mà còn có sự thật. Chúng ta hãy dám biết, như khẩu hiệu khai sáng của Kant, dám phê phán để các bông hoa mới có điều kiện nở, nói như Marx, và dám làm, với quyết tâm và sự sáng suốt cao nhất, để đưa đất nước sớm đến bờ vinh quang của mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân vĩ đại nhất của dân tộc.

Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan có bốn câu thơ sau đây nói lên nỗi niềm của Bà, diễn tả một tâm sự cô đơn khắc khoải xoáy vào lòng người của một người lo âu cho vận nước mà tôi rất chia sẻ:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bà sinh ra năm 1804, hai năm trước khi Phổ bị Napoleon đánh sập, vua quan phải bỏ Berlin chạy về phía Đông để tổ chức kháng chiến và bắt đầu làm cuộc lội ngược dòng lịch sử bằng cải cách thể chế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa giáo dục là những cái đã mục nát dưới chế độ quân chủ chuyên chính. Bà không biết rằng lúc đó thời đại các dân tộc châu Âu bắt đầu đổi mới một cách quy mô. Các cuộc chiến tranh của Napoleon (1803-1815) buộc các quốc gia phong kiến châu Âu phải cải cách thể chế chính trị và chuyển mình, giải phóng những công dân nô lệ để họ có đầy đủ quyền tự do đi tìm hạnh phúc của mình theo cách họ muốn, đúng theo các ý tưởng của Adam Smith. Các dân tộc châu Âu đã hồi sinh. Kinh tế châu Âu sáng lên dần như bình mình, nhà máy mọc lên khắp nơi, hàng hóa và con người lưu thông nhộn nhịp, khác với cảnh “Lom khom dưới núi, tiều vài chú/ Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” có thể minh họa cho kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.

Bà mất năm 1842, lúc đó giai đoạn công nghiệp hóa Đức bắt đầu phát triển mạnh. Mười sáu năm sau, Pháp nổ súng lần thứ nhất ở Đà Nẵng, tiếp theo tiếng súng của Phó đề đốc Mathew Perry nổ ở vịnh Tokyo khoảng năm năm sau. Nhưng Nhật Bản đã nhanh chóng thức tỉnh và đổi mới toàn diện, tránh được thảm họa rơi vào lệ thuộc như Việt Nam; và chỉ trong ba thập niên sau, họ nghiễm nhiên đã trở thành cường quốc hàng đầu và duy nhất ở châu Á trong khi các quốc gia khác vẫn còn chưa tỉnh ngủ.

Xin có mấy lời chia sẻ cùng anh chị trước thềm năm mới.

Nguyễn Xuân Xanh, Xuân Ất Tỵ 2025

 

[II]

NĂM MƯƠI NĂM NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC

Bài đăng trên tạp chí Xưa và Nay Xuân Ất Tỵ

Tính từ năm 1975, đất nước đã có hòa bình, thống nhất tròn 50 năm. Tính từ cột mốc 1986, chúng ta có 39 năm đổi mới. Sau ngót 40 năm đổi mới, áp dụng các chính sách của kinh tế thị trường, đất nước chúng ta đã thay da đổi thịt mà mọi người quan sát phái nhìn nhận là “thần kỳ”, nhân dân có cơm ăn áo mặc, có sự phồn vinh ở các đô thị lớn. “Bàn tay vô hình” của nhà kinh tế học Adam Smith phát huy tác dụng ngay lập tức đúng như người cha đẻ của nó tiên đoán: hoạt động kinh doanh vì lợi ích cá nhân, trong những điều kiện “công bằng tự nhiên” đối với các thành phần dân chúng, thì dưới tác dụng của bàn tay vô hình, đã được biến thành lợi ích chung của xã hội một cách thần kỳ mà không cần sự chỉ đạo tập trung của bàn tay hữu hình nào cả, một hiệu quả không phải có chủ đích trước. GDP quốc gia cũng là kết quả của sự lao động của toàn dân.

Bức tranh của sân trường Đại học Khoa học tự nhiên nơi nửa thế kỷ trước tôi từng theo học, thay đổi căn bản, thể hiện sự phồn vinh. Ngày nay sân trường đại học đầy ắp hàng hàng xe máy hiện đại của Nhật, Ý … so với trước đây chỉ có xe đạp là chính, và một số chiếc máy đơn giản velo solex, mobylette, lambretta và những thứ tương tự nhập từ châu Âu. Honda lúc bấy giờ chưa có mặt. Còn tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, các nhà cao tầng vươn lên bầu trời tuy còn khiêm tốn, nhưng có lẽ đang chuẩn bị cho những nhà chọc trời sắp tới vươn cao hơn nếu kinh tế thị trường tiếp tục phát triển mạnh, và công nghiệp hóa được thúc đẩy. Việt Nam đang thay da đổi thịt.

Người Việt Nam, trai cũng như gái, phát triển tốt hơn, thể chất đầy đặn hơn, ăn mặc đẹp đẽ hơn, được học hành nhiều hơn, xuất hiện trong hầu như tất cả nghề nghiệp một cách chuyên nghiệp và rất có ý thức. Tài năng trẻ xuất hiện nhiều chưa từng có. Họ không còn rách rưới, mà là những bông hoa rất đáng yêu. Bên cạnh nền giáo dục trong nước các em học sinh, sinh viên còn có nhiều cơ hội để tiếp xúc giáo dục nước ngoài. Đó cũng là kết quả của “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là “thần kỳ nhỏ”. Nghèo khó và lạc hậu còn tồn tại phổ biến ở nhiều mức độ khác nhau. Việt Nam chưa thoát ra khỏi kinh tế “sơ chế” của nền kinh tế nông nghiệp mới phát triển, với một nền sản xuất hàng hóa tiêu dùng còn non trẻ. Phần “cá mập” trong tăng trưởng GDP dựa vào các công ty đầu tư nước ngoài FDI. Để được phồn vinh, Adam Smith nói đến yếu tố quan trọng trong các xã hội thương mại (commercial societies) là sự phân công lao động. Điều này gần như đồng nghĩa với sản xuất, thủ công hay bằng máy móc, từ thô sơ đến tinh vi. Ông đã nhìn phân công lao động như nguyên lý sản xuất công nghiệp, điều sẽ diễn ra một thời gian ngắn sau khi ông mất, với máy hơi nước của James Watt mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp lịch sử. Chính sự phân công lao động mới sản xuất ra nhiều hàng hóa và qua đó thúc đẩy thương mại trong nước và ra nước ngoài phát triển mạnh lên. Hàng hóa ít, thì trao đổi thương mại sẽ ít, và quốc gia phải nhập hàng ngoại nhiều, làm chảy máu ngoại tệ. Bước đầu tiên của cuộc công nghiệp hóa là “thay thế hàng nhập khẩu”, để sau đó chuyển sang bước thứ hai “sản xuất định hướng xuất khẩu”, hai khâu quan trọng tạo điều kiện kỹ thuật và tăng cường năng lực công nghệ cho giai đoạn công nghiệp hóa các ngành công nghiệp nặng tiếp theo. Đó là những chặng đường cổ điển mà Hàn Quốc và Đài Loan đã đi rất rõ nét. Tuy Việt Nam cũng đã trải qua hai giai đoạn đó, nhưng không sâu sắc, và rốt ráo, do đó chưa tạo ra năng lực công nghiệp đáng kể để tiến lên phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất, điện tử. Dưới thời Park Chung Hee, cả ba quá trình này bị “cô đặc lại” dưới một sức ép chính sách có tính mệnh lệnh. Họ phải chạy đua để tồn tại trong một tình thế địa chính trị bất ổn, để sớm như có thể vượt lên vượt qua nền kinh tế nông nghiệp tiến lên công nghiệp hóa. Các công nhân nhà máy được Park gọi là các “chiến binh công nghiệp” (industrial warrior). Họ chiến đấu cho một quốc gia mới sinh thành. Công nghiệp hóa là sự sống còn của nền cộng hòa non trẻ – hay là chết. Trong ngày đầu cầm quyền, Park Chung Hee đã tuyên bố: Chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa.

Kinh tế Việt Nam đang có “gót chân Achilles” kềm hãm sự phát triển bứt phá để tiến lên “thần kỳ lớn”. Đó là khoa học, công nghệ, và văn hóa khoa học như môi trường nuôi dưỡng chúng, những yếu tố đã chứng minh sự thay đổi cách mạng, bứt phá thần kỳ trong lịch sử nhân loại, từ Tây sang Đông, vẫn chưa được tích hợp vào nền kinh tế. Nói khác đi, Việt Nam còn thiếu cuộc cách mạng công nghiệp, hay công nghiệp hóa theo đúng nghĩa, yếu tố đã từng diễn ra đầu tiên tại Anh quốc thế kỷ XVIII-XIX và sau đó ở các quốc gia phát triển muộn giúp cho họ nhanh chóng cất cánh: Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, rồi Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc. Như một quy luật cho mọi thời đại và ở mọi nơi, quốc gia nào tiến hành công nghiệp hóa thành công, tích hợp được khoa học và công nghệ vào nền sản xuất một cách sáng tạo, sẽ có đủ năng lực để vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Một quốc gia bị vướng vào bẫy thu nhập trung bình quá lâu là vì quốc gia đó không thực hiện công nghiệp hóa. Một chiếc máy bay mà thiếu động cơ phản lực thì không thể nào cất cánh được. Công nghiệp hóa chính là động cơ đó. Nó đòi hỏi con người phải đổ mồ hôi, vắt óc, nhưng nếu không có nó, dân tộc sẽ phải trả giá gấp nhiều lần hơn.

Tích hợp Khoa học Công nghệ (KHCN) vào nền kinh tế là công việc “engineering” khó nhất và then chốt nhất. Việc đó cần một lực lượng kỹ sư sáng tạo để ráp nối hài hòa khoa học công nghệ như lý thuyết vào thực tế sản xuất. Đây là khâu quyết định. Không thực hiện được nó, thì những khát vọng đều trở nên hão huyền. Người Hàn đã để lại những kinh nghiệm quý báu có thể học hỏi qua Viện Khoa học và Công nghệ KIST của họ, và vị giám đốc thành lập và quản trị nó, TS. Choi Hyung-sup mà tôi đã có dịp trình bày[2]. Học KHCN mà không tích hợp nó vào kinh tế thì chỉ biết về lý thuyết thôi, chưa giúp ích cho việc thay đổi thực tế xã hội. Đó là điểm then chốt. Chúng ta nhớ, Viện KIST được thành lập chỉ năm năm sau khi Park Chung Hee lên nắm quyền, lúc GDP đầu người của Hàn Quốc chỉ có vài trăm đô la Mỹ, giống như Việt Nam trong những năm đầu của đổi mới. Nhưng Viện đó là mô hình đã sớm đưa Hàn Quốc tiến vào công nghiệp hóa. Nó có quy chế riêng, không chịu phụ thuộc vào sự ràng buộc của các thủ tục và quy định hành chánh thường gây cản trở và ách tắt. Đó là tầm nhìn của Park Chung Hee. Ông chấp nhận lương của chuyên gia hàng đầu của KIST cao hơn lương của ông. Việt Nam, sau gần 40 năm đổi mới, với GDP đầu người khoảng 4.000 đô la Mỹ, vẫn chưa có một viện tương tự của riêng mình để thúc đẩy công nghiệp hóa tiến lên.

Việt Nam cũng như Hàn Quốc hay Trung Quốc, có truyền thống nho giáo, siêng năng học, điều đó tốt, nhưng học chỉ để trả bài và làm quan, hơn là để ứng dụng và sáng tạo. Hàn Quốc đã thay đổi được truyền thống đó một cách căn bản trong một thời gian ngắn kỷ lục dưới sự lãnh đạo của Park Chung Hee.

Trong quá trình thực hiện, thể chế phải luôn luôn đi sát với yêu cầu của cuộc công nghiệp hóa trong từng thời điểm. Cái gì không hiệu quả, gây cản trở thì phải được thay bằng cái mới, như tinh thần “trial-error” của cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu. Bộ máy hành chánh phải là bà mụ giúp khai sinh công nghiệp hóa, không phải để cản trở nó. Bộ máy đó phải gồm những người được khai sáng về tinh thần thời đại, zeitgeist, và làm cho nó xuất hiện trên đất nước. Phải có một lực lượng kỹ trị tài giỏi làm nòng cốt để thực hiện cuộc chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp như các quốc gia xung quanh đã làm. Chúng ta cần làm cho khoa học bén rễ vào văn hóa để trở thành thói quen, để người dân được khai sáng công nghiệp, có niềm tin vào khoa học, công nghệ, thay vì vào mê tín dị đoan.

Phát triển kinh tế phải đi đôi với đạo đức. Adam Smith, trước tác phẩm Sự phồn vinh của các quốc gia, đã xuất bản quyển sách Lý thuyết những tình cảm đạo đức. Ông xem đạo đức như cái nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế để làm cho nó hiệu quả, bền vững và xã hội có đức hạnh. Nhật Bản Minh Trị ngay từ đầu cũng đã nêu cao đạo đức như ưu tiên hàng đầu, thể hiện qua khẩu hiệu “Khoa học phương Tây, Đạo đức phương Đông”. Đạo đức từ vua, chính phủ, bộ máy nhà nước, đến giáo dục và cuộc sống trong gia đình, lẫn ngoài đường phố, nói chung toàn xã hội. Họ cũng có doanh nhân xuất sắc Shibusawa Eiichi, người được tôn vinh đã truyền bá chủ nghĩa tư bản vào Nhật Bản dưới màu áo đạo đức Khổng giáo. Ông nói, Bàn tính (abacus) và Luận ngữ phải đi đôi với nhau. Hình ông được đưa lên giấy bạc mệnh giá ¥10,000 cao nhất trong ba đồng tiền mới vừa được lưu hành chính thức năm 2024.

Tổng Bí thư Tô Lâm, trong tháng 12, 2024, đã có những phát biểu dồn dập khá đặc biệt và gây chú ý trong dư luận. Hai trong những phát biểu đó là “chỉ có khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mới là con đường giúp chúng ta bứt phá, bắt kịp, tiến cùng thế giới” và sự nhấn mạnh vai trò của trí thức và nhà khoa học: “Trí thức, nhà khoa học có trách nhiệm nâng tầm trí tuệ, sức mạnh dân tộc.” Thực tế ông đã khoanh lại đúng vấn đề cốt lõi của sự phát triển. Tại sao ông lại nói những vấn đề mới đó, và vào lúc này? Tôi tin rằng, ông đã nhìn thấy nguy cơ Việt Nam vướng vào bẫy thu nhập trung bình lâu nếu không sớm có lối thoát, và Việt Nam sẽ “già trước khi giàu” nếu như không tiến hành cách mạng công nghiệp một cách triệt để. Ông cũng là người dám nhìn thẳng vào sự thật không tránh né, khi tuyên bố “Nghèo khổ thì độc lập không ý nghĩa “. Điều này làm người ta nhớ tới những ý tưởng của vị Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản Minh Trị Itō Hirobumi hơn 150 năm trước với câu nói nổi tiếng “Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?” Đó là lòng tự trọng, là danh dự của quốc gia. Tôi nghĩ, với những phát biểu mạnh mẽ về khoa học, công nghệ, Ngài Tô Lâm đã thấy vấn đề then chốt của phát triển đất nước như Park Chung Hee đã từng thấy sáu mươi lăm năm trước với Hàn Quốc của ông. Không có công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước không thể cất cánh và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Công nghiệp hóa là định mệnh của chúng ta, cũng như của tất cả các dân tộc khác. Việt Nam cần phải tiến lên quốc gia chế tạo (manufacturing nation), làm chủ công nghệ sản xuất tiên tiến, từ các viện khoa học, công nghệ đến đại học nghiên cứu, luôn luôn đổi mới sáng tạo, chứ không phải chỉ buôn bán, cho thuê đất và nhân công rẻ. Một quốc gia có khoa học, công nghệ phát triển sẽ nhìn thấy thiên hà cơ hội mà một quốc gia nông nghiệp không thấy.

Với những tuyên bố mới của Ngài Tô Lâm, phải chăng chúng ta đang sống trong những ngày “thôi thúc và giông bão” thật sự của một cuộc đổi mới thứ hai của đất nước? Tôi chờ đợi đã lâu một “tín điều”, một nhận thức thấu suốt như thế đối với vai trò của khoa học và công nghệ từ giới lãnh đạo. Chúng ta cần phải hiểu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong ngữ cảnh của một cuộc cách mạng công nghiệp như được trình bày ở trên. Và chỉ có cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện xuyên suốt như kinh nghiệm của thế giới gần ba trăm năm qua mới đưa đất nước vào kỷ nguyên mới như tuyên bố của Tổng Bí thư, có thể giúp Việt Nam mãi mãi thoát khỏi nghèo khó lạc hậu, lấy lại niềm tin và tự hào dân tộc. Công nghiệp hóa là một con chiến mã. Hãy đặt Việt Nam lên yên. Nó sẽ phi nước đại. “Sự tăng trưởng công nghệ mới chính là nguyên cớ chính của sự tăng trưởng của kinh tế”, như nhà cải cách Đức Friedrich List thế kỷ XIX nói. Kỷ nguyên mới là kỷ nguyên của phát triển chiều sâu, của học thuật, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, làm chủ những công nghệ mới trong sản xuất.

Từ chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden tháng 9 năm 2023, Việt Nam đang ở vào thời kỳ “thiên thời (cơ), địa (chính trị) lợi”. Một cơn gió mới đang thổi vào đất nước mà không cây cỏ nào lại không cảm nhận, nói như nhà khai sáng Fukuzawa, không chỉ thổi vào Việt Nam, mà vào cả vùng Đông Nam Á. “Khắp mọi nơi, không có cỏ cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này” như Fukuzawa nói trong Thoát Á luận. Và ông tiếp: “Tại sao ta không bơi với họ trong cùng một đại dương văn minh, lướt thuyền cùng những con sóng và tận hưởng thành quả và nỗ lực của nền văn minh?” Đó chính là nhận thức mở màn cho cuộc canh tân vĩ đại của người Nhật sau đó để hội nhập vào phương Tây. Chúng ta hãy khẩn trương nắm lấy cơ hội có một không hai đang đến đất nước để thực hiện công nghiệp hóa. Các quốc gia đi trước xung quanh đã cung cấp những bài học vô cùng quý giá. Hãy ra sức học, và hãy ứng dụng chúng.

Lịch sử dân tộc Việt Nam rất oai hùng, nhưng cũng có những nhược điểm nhất định cần phải được khắc phục. Các dân tộc hóa rồng cũng không miễn nhiễm điều đó. Mặt khác, chúng ta cũng cần phải học nghiêm túc từ những bài học thất bại của chính chúng ta trong nửa thế kỷ qua, và kiên quyết không để những sai lầm đó tái diễn. Người Nhật, người Hàn hãnh diện mình chỉ học một lần. Chúng ta phải biết học (learn) và biết quên đi (unlearn) những gì đã học nhưng không còn phù hợp với thời thế nữa. Mọi người cần thay đổi cuộc sống và tư duy cho phù hợp với thời đại, thì đất nước mới tiến lên được. Chúng ta không thể chờ đợi một đất nước công nghiệp hóa mà vẫn sống với tư duy cũ phi hiện đại, và không có lòng tin, hay quan tâm đến công nghiệp hóa. Hiện tại, mức độ học thuật, nghiên cứu sâu, văn hóa đọc, cơ sở hạ tầng trí thức của Việt Nam hãy còn rất khiêm tốn, chưa phù hợp lắm với nhu cầu phát triển một quốc gia công nghiệp hóa. Điều này cần phải thay đổi sớm. Tại các quốc gia vươn lên công nghiệp hóa như Nhật Bản thời Minh Trị, hay Trung Quốc thời Ngũ Tứ 1919, hoặc Ấn độ trước đó, người ta xem khoa học và nghiên cứu khoa học là mệnh lệnh quốc gia mà thời đại đang réo gọi, không còn là công việc cá nhân. Chỉ có khoa học mới đổi đời quốc gia. Cho nên giới tinh hoa của họ mới tiến vào làm khoa học. Văn hóa khoa học phát triển sớm. Khoa học đóng vai trò khai sáng và nhận thức quyết định trong việc dựng lại nước.

Việt Nam cần có cái được gọi trong lịch sử là khai sáng công nghiệp (industrial enlightenment), từng phát triển mạnh mẽ đầu tiên ở Anh. Đó là con người có niềm tin vào khả năng đổi đời bằng sự tiếp thu tri thức hữu dụng mà vị tiên tri của nó là Francis Bacon, áp dụng nó trong đời sống, hơn là tin vào ân huệ của thần thánh. Niềm tin này đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đó là cái vốn tinh thần và ý chíGeist- und Willens-Kapital, như Nietzsche gọi, thúc đẩy thay đổi như động cơ. Con người có thể thay đổi vận mệnh mình bằng chính bàn tay sáng tạo của mình. Tri thức mới, kỹ thuật mới, và tài kinh doanh khôn ngoan, là những yếu tố sẽ thay đổi cuộc chơi. Tinh thần dậy men đó, niềm tin đó, như nhà triết học Tô Cách Lan thế kỷ XVIII David Hume nói, sẽ làm thức tỉnh đầu óc con người khỏi giấc ngủ im lìm và làm cho nó dậy men … để thực hiện sự cải thiện trong ngành nghề và khoa học. Con người đang sống trong thời đại của cải tiến từng ngày, bằng công nghệ, khoa học và toán học. Sự thay đổi thuận lợi cần được hỗ trợ bởi những định chế xã hội lành mạnh và vai trò nhà nước gìn giữ sự ổn định và tự do như một ‘khế ước xã hội.” Có một sự phát triển đột biến về nhận thức. Xã hội tiến hóa từ tôn giáo, thương mại, sản xuất thủ công, sang sản xuất bằng máy móc cơ khí, sản xuất lớn thông qua các xí nghiệp (factory) được tổ chức mới, tiến tới một xã hội công nghiệp. Từ đó, văn hóa khoa học thấm đẫm vào giới trí thức, và ngày càng mở rộng. Bản chất con người, dòng dõi của homo sapiens, vốn là sáng tạo, nhưng như Adam Smith nói, bị rất nhiều yếu tố xã hội cản trở và kềm hãm rất lâu. Chỉ khi nào xã hội dẹp các rào cản, có niềm tin đủ mạnh của con người, và hội đủ những điều kiện thuận lợi, sáng tạo mới sẽ nảy mầm.

Tôi xin kết luận bằng những lời sắc bén của vị Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên của Nhật Bản Minh Trị, Mori Arinori, hơn 150 năm trước:

Chiến tranh (sensō) không phải chỉ là đánh nhau bằng súng đạn và giết nhau, mà tất cả mọi người Nhật phải được tham gia ngay từ bây giờ vào cuộc chiến tranh của kỹ năng, kỹ năng của cuộc sống, của công nghiệp, thương mại, tri thức. Và đào tạo thầy giáo phải dựa trên sự chuẩn bị cho cuộc chiến này. Thua cuộc chiến này là sẽ thua cuộc chiến bằng súng đạn. Đất nước chúng ta phải chuyển dịch từ vị trí hạng ba lên vị trí hạng hai, rồi hạng hai lên hạng nhất; và sau cùng lên đến vị trí hàng đầu trong cộng đồng các quốc gia thế giới. Con đường tốt nhất để thực hiện điều này là đặt nền móng cho giáo dục cơ bản.

Tôi biết những dòng tâm tư trên không có chất thi vị để chào đón mùa xuân, như người ta thường làm, không “bay bổng”, vì đất nước còn đối diện với những thách thức hết sức to lớn ở phía trước gắn liền với những hứa hẹn cũng rất to lớn. Điều mà tôi muốn nhiều hơn là đưa ra vài nét chính của con đường thật sự Việt Nam còn phải đi, và cần phải đi, không thể tránh né, nếu muốn có phồn vinh và an ninh quốc gia, để bảo vệ di sản văn hóa, lịch sử. Chắc chắn cuộc tiến quân của các lực lượng sản xuất để đạt tới đích cao cả của đất nước, thay đổi lịch sử cho tốt đẹp hơn, sẽ là bản hùng ca thấm đẫm mồ hôi, với nhiều chất thơ cũng như sự thật hòa quyện nhau như di sản vĩnh cửu của các thế hệ hôm nay trong việc giữ gìn đất nước cho các thế hệ mai sau. Chẳng phải mục đích đó đẹp đẽ và thi vị lắm hay sao? Chẳng phái đó là nhiệm vụ hết sức vinh quang dành cho các thế hệ hôm nay hay sao?

Sài gòn xưa, thành phố Hồ Chí Minh, những ngày đầu năm 2025

 

[1] Theo VOV, Thứ Hai, 12:57, 30/12/2024: https://vov.vn/chinh-tri/tong-bi-thu-chi-co-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-moi-giup-viet-nam-but-pha-post1145514.vov

[2] Xem Viện Khoa học Công nghệ Hàn Quốc KIST: https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/vien-khoa-hoc-cong-nghe-han-quoc-kist/KIST – Choi Hyung Sup và Park Chung Hee: https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/kist-choi-hyung-sup-va-park-chung-hee/