CHỦ NGHĨA KHẮC KỶ (STOICISM)
Nguyễn Xuân Xanh
Dẫn nhập cho bài viết
MARCUS AURELIUS / Hoàng đế triết gia của Đế quốc La Mã
của Nguyễn Lương Việt & Nguyễn Lương Dũng

Con người chinh phục thế giới bằng cách chinh phục chính mình.
— Zeno
Hãy biết mình (Know Thyself)
— Tiên tri Delphi (Oracle)
Con người tìm kiếm nơi ẩn dật cho riêng mình, ở nông thôn, bờ biển và vùng núi; và bạn cũng thế, rất thường mong muốn những điều như vậy. Nhưng đây hoàn toàn là dấu hiệu của loại người bình thường nhất, bởi vì bạn có thể tìm được sự ẩn dật bất cứ khi nào ngay trong chính bạn. Vì không có nơi ẩn dật nào yên tĩnh hơn hoặc thoát khỏi những lo âu hơn trong tâm hồn của con người, đặc biệt khi anh ta có những suy nghĩ như vậy bên trong anh ta mà khi nhìn vào anh ta sẽ ngay lập tức cảm nhận được sự bình yên hoàn toàn; và bình yên không gì khác hơn là trật tự hợp lý của tâm trí. Vậy thì hãy luôn luôn dành cho bạn nơi ẩn dật này và làm mới lại bản thân.
— Marcus Aurelius
Không phải chúng ta được ban cho một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng tại vì chúng ta làm cho nó ngắn ngủi, và chúng ta không bị thiếu thốn mà lãng phí nó đi.
— Seneca
Dẫn nhập
Hoàng đế Marcus Aurelius chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa khắc kỷ, nhưng cũng có phần riêng của ông. Chủ nghĩa này được sáng lập bởi nhà hiền triết Hy Lạp hóa gốc Phoenica Zeno.
Trước nhất câu chuyện của Zeno, sau đó triết lý và trường phái của ông.
Zeno – Nhà khai sáng chủ nghĩa Khắc kỷ
Chủ nghĩa Khắc kỷ là một trong những hệ thống triết học thống trị của thời kỳ Hy Lạp hóa. Tên gọi này bắt nguồn từ hiên nhà (stoa poikilê) ở Agora tại Athens được trang trí bằng những bức tranh tường, nơi thế hệ triết gia Khắc kỷ đầu tiên tụ họp và thuyết giảng. Trường phái tư tưởng được thành lập ở đó đã tồn tại lâu hơn hiên nhà vật lý của Athens và đặc biệt vẫn được ưa chuộng trong thời kỳ La Mã và sau đó.
Zeno sinh ra tại thành phố Citium của người Phoenicia-Hy Lạp trên đảo Síp, trùng năm Alexander Đại đế lên ngôi vua Macedonia. Cha ông là một thương gia thường xuyên đi Athens và Zeno tất nhiên đã theo nghề của cha mình. Người ta không rõ Zeno có học triết học khi còn trẻ hay không, nhưng vào khoảng 22 tuổi, ông bị một vụ đắm tàu, mất cả tàu lẫn hàng hóa. Lý do gì, không nghe nói. Tuy nhiên, sau này, người thương gia xui xẻo kia vui mừng vì sự mất mát của mình, tuyên bố rằng, “Tôi đã có một chuyến đi thịnh vượng khi tôi bị đắm tàu”. Bởi vì chính vụ đắm tàu đã đưa Zeno đến Athens, trên con đường tạo ra thứ sẽ trở thành triết lý Khắc kỷ. Khi bị kẹt ở Athens, ông đã nhặt được một bản sao Memorabilia của Xenophon và cảm thấy vô cùng ấn tượng trước hình tượng Socrates đến nỗi ông quyết định từ bỏ cuộc sống trước đây và coi việc nghiên cứu triết học là sở thích duy nhất của mình.
Zeno sau đó học với nhiều thầy như Crates rồi với Stilpo, và Polemo. Sau nhiều năm học tập, Zeno đã thành lập trường học của riêng mình và bắt đầu giảng dạy tại các hiên nhà (‘stoa’) của dãy hành lang trong khu chợ ở Athens và vì vậy trường học của ông đã lấy tên theo nơi học tập, Stoic, hay Porch (Veranda). Chính nơi đây ông đã thổi hồn vào chủ nghĩa Khắc kỷ. Bên cạnh Zeno, trường Porch chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Chrysippus (280—207 TCN), người đã tổ chức Chủ nghĩa Khắc kỷ thành một hệ thống. Chủ nghĩa khắc kỷ được truyền lửa tiếp tục bởi nhiều nhà triết học tên tuổi như Cleanthes, Seneca, Epictetus, và Marcus Aurelius, những người sẽ tiếp tục chuyển ngọn đuốc khắc kỷ tiếp tục cho những đời sau.
Để ghi ơn những lời dạy và ảnh hưởng của ông đối với thanh niên Athens, một lăng mộ của ông được xây dựng tại Athens. Vào năm 1935 một miệng núi lửa trên mặt trăng được Hiệp hội thiên văn thế giới (IAU) đặt tên Zeno.
Trường phái của ông cuối cùng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của triết học La Mã khi một trong những học trò của trường, Diogenes xứ Babylon (khoảng 230 đến khoảng 140 TCN), mang Chủ nghĩa khắc kỷ đến Rome vào năm 155 TCN.

Tượng bán thân của Zeno từ Citium Zeno xứ Citium trong bộ sưu tập Farnese, Naples. Ảnh của Paolo Monti, 1969.
Khoảng cách từ Citium đến Athens khoảng 300 dặm. Hy lạp nằm phía Tây.
Chủ nghĩa Khắc kỷ
Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ coi sống một cách nhất quán và hài hòa với tự nhiên (nature) là cuộc sống hạnh phúc. Để sống hài hòa với tự nhiên, cần phải biết tự nhiên là gì; và vì mục đích này, triết học khắc kỷ được chia thành ba phần: Vật lý (phusikê) nghiên cứu những vấn đề về vũ trụ và các quy luật của nó, các vấn đề về sự cai quản thần thánh và mục đích luận; Logic (λόγος), gồm rhetoric (hùng biện), ngữ pháp, phép biện chứng và nhận thức luận, giúp rèn luyện trí óc để phân biệt đúng sai; nó chính là các môn nghệ thuật khai phóng (liberal arts) chúng ta đã gặp ở các đại học trung cổ (xem sách Đại học); và Đạo đức (ethos) áp dụng kiến thức đã thu thập được và thử nghiệm vào cuộc sống thực tế. Đạo đức khắc kỷ có cấu trúc theo chủ nghĩa eudaimonist, coi hạnh phúc (eudaimonia) – một cuộc sống thịnh vượng, trọn vẹn – là mục tiêu thực tế cuối cùng hoặc mục đích cuối cùng (telos) của tác nhân lý trí.
Để đưa tâm trí chúng ta vào trạng thái đồng thuận và đạt được mục đích (telos), những người theo chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng chỉ cần một điều duy nhất: đức hạnh (virtue). Đức hạnh là trạng thái hoàn thiện của lý trí con người (Seneca), hay “một tâm hồn được hình thành để đạt được sự nhất quán hoặc sự đồng thuận trong toàn bộ cuộc sống” (Diogenes Laertius). Phát triển hết khả năng lý trí của mình, tác nhân đức hạnh không chỉ sống một cuộc sống thể hiện cao nhất bản chất con người – trạng thái tốt nhất có thể mà con người có thể đạt được, xét theo bản chất của chúng ta – mà còn tái hiện trong chính nó trạng thái của thần thánh (Seneca). Do đó, sống đức hạnh là sống phù hợp với cả bản chất con người và bản chất vũ trụ hay thần thánh cùng một lúc (Chrysippus).
Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ nổi tiếng với lập luận rằng người có đức hạnh không cảm thấy đam mê (pathê) và do đó, cuộc sống hạnh phúc hoàn toàn không có đam mê (apathes). Để hiểu rõ hơn về tuyên bố nổi bật và khét tiếng này, chúng ta hãy cùng xem xét cách họ định nghĩa các đam mê:
Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ nói rằng đam mê là sự thúc đẩy quá mức và không tuân theo sự chỉ dẫn của lý trí, hoặc là một chuyển động của tâm hồn phi lý và trái với tự nhiên; và mọi đam mê đều thuộc về khả năng chỉ huy của tâm hồn. (David Hume từng diễn tả triệt để hơn: Đam mê là kẻ chăn dắt lý tính, và lèo lái nó, chứ không phải ngược lại.)
Trái ngược với quan điểm của Plato cho rằng các Ý niệm hoặc Nguyên mẫu của hiện tượng thực sự tồn tại, những người theo chủ nghĩa Khắc kỷ cho rằng các vật thể vật chất tồn tại riêng biệt; nhưng có một sức mạnh tinh thần ẩn chứa trong vũ trụ vật chất tác động xuyên qua chúng, thể hiện dưới nhiều hình thức như lửa, æther, tinh thần, linh hồn, lý trí, như nguyên lý chi phối.
Vậy thì vũ trụ chính là Chúa (Thượng đế), các vị thần chính là những sự hiện thân của Chúa; trong khi truyền thuyết và thần thoại mang tính ngụ ngôn. Linh hồn của con người do đó là sự phát xuất từ thượng đế, và cuối cùng sẽ được hấp thụ trở lại. Nguyên lý chi phối của thần thánh khiến mọi vật cùng hoạt động vì lợi ích chung. Lợi ích cao nhất của con người là có ý thức hợp tác với Thượng đế vì lợi ích chung, và đây chính là ý nghĩa mà người Khắc kỷ cố gắng sống hòa hợp với tự nhiên.
Ý nghĩa của triết học?
Chủ nghĩa khắc kỷ ảnh hưởng lên văn hóa châu Âu suốt chiều dài lịch sử về quan niệm sống và xử thế. Ngày nay sách vở về Zeno và những nguyên tắc sống của ông cũng như của những nhà khắc kỷ nổi tiếng như Cleanthes, Senaca, Gaius Musonius Rufus, Epictetus … tiếp tục phát triển mạnh mẽ mang tính áp dụng vào đời sống. Triết học khắc kỷ, hay triết học nói chung của Hy Lạp có mục đích gì? Rõ ràng nó có mục đích giúp con người sống “hạnh phúc” theo nghĩa nhất định, hòa hợp với tự nhiên, nhận thức được mình và ranh giới của thế triết học nhập thế đang tìm kiếm. “Bạn có thực sự biết triết học mang lại điều gì cho nhân loại không?” Seneca hỏi trong Moral Letters của mình. “Triết học đưa ra lời khuyên”, khuyên về cách sống cho “phải đạo”, hợp “lẽ trời” dựa trên nhận thức từ logic.
Epictetus ( – 135 Sau CN)
Từ nô lệ đến nhà triết học được săn đuổi nhát thế giới
“Tự do là mục tiêu có giá trị duy nhất trong cuộc sống. Nó đạt được bằng cách bỏ qua những thứ nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.”
“Hãy gắn bó với những gì cao cả về mặt tinh thần, bất kể người khác nghĩ gì hay làm gì. Hãy giữ vững khát vọng thực sự của bạn bất kể điều gì đang diễn ra xung quanh bạn.”
― Epictetus
Lucius Annaeus Seneca (c. 4 B.C.E.—65 C.E.)
Tượng hiện đại ở Córdoba, Tây Ban Nha, nơi ông sinh ra.
“Không phải chúng ta được ban cho một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng tại chúng ta làm cho nó ngắn ngủi, và chúng ta không bị thiếu thốn mà lãng phí nó đi.”
— Seneca
Các nhà triết học phương Tây cổ đại thực sự tiếp cận triết học như một cách sống, way of life, như học giả người Pháp rất ảnh hưởng Pierre Hadot nhận định. “Một kho tàng các hoạt động tâm linh, ẩn sâu trong các tác phẩm văn học của triết học Hy Lạp và La Mã, được thiết kế rõ ràng để giúp mọi người vượt qua đau khổ về mặt cảm xúc và phát triển sức mạnh của tính cách” như ông viết. Đó là liệu pháp triết học. Theo ông, các hoạt động chiêm nghiệm (contemplative) đã trở nên rất phổ biến trong các trường phái triết học của thời kỳ Hy Lạp hóa, một vài thế hệ sau khi Socrates qua đời. Trường phái Khắc kỷ đặc biệt tập trung vào khía cạnh thực tế của triết học Socrates, không chỉ thông qua việc phát triển các đức tính như tính tự chủ và lòng dũng cảm (những gì chúng ta có thể gọi là khả năng phục hồi cảm xúc) mà còn thông qua việc sử dụng rộng rãi các bài tập tâm lý. Đó là tiền thân của ngành trị liệu tâm lý học hiện đại. Chính những phán đoán của chúng ta về các sự kiện bên ngoài, chứ không phải bản thân các sự kiện, mới gây ra đau khổ về mặt cảm xúc. Xác định và nhận thức nguồn gốc này, chúng ta có thể quản lý cảm xúc của mình hiệu quả hơn.
Ngày nay, liệu pháp hành vi nhận thức (Cognitive Bahavioral Therapy, CBT) bắt nguồn từ chủ nghĩa khắc kỷ này, đã được chứng minh là có hiệu quả. Cả hai có chung nền tảng triết học, đặc biệt là về vai trò của suy nghĩ và niềm tin trong việc hình thành cảm xúc và hành vi. Suy nghĩ và niềm tin có tác động trực tiếp đến cảm xúc và hành động của chúng ta. Nhận thức được điều đó đồng nghĩa thấy được con đường dẫn tới lối ra. Chủ nghĩa khắc kỷ còn vượt xa liệu pháp điều trị bằng cách cung cấp toàn bộ triết lý sống, hứa hẹn tái lập năng lực phục hồi cảm xúc lâu dài thay vì chỉ giải quyết các vấn đề hiện tại.
Tại Thung lũng Silicon, trung tâm làm giàu thế giới, triết lý khắc kỷ có vai trò gì hay không?
Thung lũng Silicon và Chủ nghĩa khắc kỷ
Báo WIRED năm 2017 có một bài viết về Chủ nghĩa khắc kỷ ở Thung lũng Silicon: Hơn 2.000 năm sau khi nổi lên, chủ nghĩa Khắc kỷ bất ngờ trở nên phổ biến ở Thung lũng Silicon thế kỷ 21. Nhà thuyết giáo chính là chuyên gia khởi nghiệp Tim Ferriss, người gọi nó là “một hệ điều hành lý tưởng để phát triển trong môi trường căng thẳng cao độ”. Những người hâm mộ khác bao gồm đồng sáng lập Digg Kevin Rose, người thực hành nghệ thuật Khắc kỷ của sự tự chối bỏ (tắm nước lạnh; không mặc áo khoác vào mùa đông) và “chấp nhận” (surrender, từ thường được sử dụng trong chủ nghĩa khắc kỷ) hàng ngày: “Tôi cố gắng chấp nhận trái đất như mọi thứ diễn ra xung quanh tôi, không phán xét nó, mà chấp nhận mọi thứ như chúng vốn có”.
Bài báo thuyết minh về tính chất của chủ nghĩa khắc kỷ. Người theo chủ nghĩa khắc kỷ nên duy trì sự tách biệt giữa cá nhân và sự các việc bên ngoài, nhìn chúng như chúng vốn là tách biệt khỏi cảm xúc cá nhân. “Giận dữ”, Seneca viết, “là sự điên rồ ngắn ngủi”; ngay cả nỗi đau buồn cũng được coi là “sự co thắt phi lý của tâm hồn”. Cách nhìn “lạnh lùng” này của chủ nghĩa khắc kỷ chính là nền tảng của liệu pháp hành vi nhận thức hiện đại (cognitive behavioural therapy, CBT) nói ở trên. Donald Robertson, nhà trị liệu đã phát triển kỹ thuật này liên kết với triết học Hy Lạp và La Mã, cho biết: “Chủ nghĩa Khắc kỷ vượt qua hầu hết các liệu pháp và phương pháp self-help hiện đại bằng cách đưa ra quan điểm rằng phần lớn đau khổ về mặt cảm xúc của chúng ta là do các giá trị sai lầm gây ra, chẳng hạn như chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa vật chất hoặc chủ nghĩa khoái lạc”, dĩ nhiên còn nhiều thứ khác, như chủ nghĩa muốn thống trị người khác làm theo ý mình, từ cấp gia đình đến cấp quốc gia, điều gây biết bao đau khổ trên thế giới. Tờ báo đưa ra khái niệm “sống chánh niệm Khắc kỷ” bao gồm việc chú ý sâu sắc đến chiều hướng đạo đức của mọi thứ họ làm.
Susan Fowler
WIRED năm 2017 có kể thêm trường hợp cô Susan Fowler, còn rất trẻ, 34t tuổi đời, nhưng đã khá nổi tiếng. Cô xuất thân nghèo từ một vùng quê ở Arizona, bố là một nhà truyền giáo Tin lành, mẹ là người dạy cô ở nhà. Từ nhỏ cô đã thấy thiếu hụt về học vấn nên thường xuyên đến thư viện công địa phương, và cuối cùng cô đã chọn Plutarch và Stoics, mà cô ghi nhận rõ ràng là đã hướng dẫn cuộc đời mình. Cô phải phấn đấu nhiều để cuối cùng được học và tốt nghiệp môn Vậy lý tại Đại học Pennsyvania, đúng như giấc mơ của cô. Khi vào làm ở UBER ở Thung lũng Silicon, thấy những chuyện quá bất bình, cô đắn đo và chấp nhận làm công việc của một whistleblower (người tố giác). Sự việc khiến cho CEO Uber xếp của cô lúc đó bị mất chức. Cô có thể được ví như một “hiệp sĩ khắc kỷ”. Cô nói, Epictetus chính là “người đã hướng dẫn tôi sống một cuộc sống tốt đẹp, giàu trí tuệ”. Cô kể trên blog của cô “Hai mươi cuốn sách đã định hình cuộc sống phi truyền thống của tôi.” Sách vật lý hiện đại có, sách văn chương có, sách các nhà khắc kỷ có, như Senaca, Marcua Aurelius, Epictetus, rất đa dạng. Một phụ nữ đọc rất nhiều ở tuổi còn khá trẻ. Đọc sách như một sự hướng dẫn cho đời cô, và là ngọn đèn soi sáng giúp cô ra khỏi bóng tối của vô minh. Vâng, cô dám biết, sapere aude, khẩu hiệu của Kant, và biết tìm đến khai sáng cho mình.
Năm 2017, tạp chí TIME đã trao giải Nhân vật của năm cho “Những người phá vỡ sự im lặng”, đại diện cho các cá nhân và phong trào tập thể đã đưa phong trào #MeToo lên hàng đầu, trong đó có Susan Fowler:

Susan Fowler thứ hai từ phải trên bìa của TIME
Cô đã có nhiều tác phẩm, tỏ ra có năng lượng viết phi thường. Có lẽ cô đã làm được điều “chinh phục được mình”, tri thức giúp khai thông nguồn năng lượng khai sáng, trước khi cô bước ra chinh phục một thế giới lớn hơn, như Zeno nói. Những dòng cảm hứng của cô được ghi lại khi đọc Marcus Aurelius, Epictetus, Seneca là rất đẹp, thi vị và chứa đầy nhận thức, trên con đường trưởng thành của cô:
Suy ngẫm (Meditations) của Marcus Aurelius, vị vua-triết gia vĩ đại, đã luôn là người bạn đồng hành của tôi trong nhiều năm khi tôi tìm kiếm chỗ đứng của mình trong thế giới xung quanh. Còn ai tốt hơn để học cách xây dựng cuộc sống của bạn ngoài một trong những nhà lãnh đạo thông thái nhất, khiêm tốn nhất và tự nhận thức nhất từng sống? Hành trình của tôi hướng đến nhận thức về bản thân, hướng đến việc áp dụng triết học vào cuộc sống hàng ngày của mình, hoàn toàn được truyền cảm hứng từ Marcus Aurelius.
Marcus Aurelius là người đầu tiên tôi biết đến về Chủ nghĩa khắc kỷ, nhưng chính The Enchiridion của Epictetus đã hướng dẫn tôi sống một cuộc sống tốt đẹp và giàu trí tuệ. Những lời dạy của Epictetus có thể thay đổi cuộc đời nếu bạn áp dụng chúng vào cuộc sống của mình, và chính câu chuyện cuộc đời của Epictetus đã mang lại cho tôi ý nghĩa to lớn như vậy: ông là một nô lệ tàn tật, và ông đã tìm ra cách sống cho phép ông được tự do theo mọi cách có ý nghĩa. Chúng ta sống trong những hoàn cảnh vượt xa tầm kiểm soát của chính mình, và chúng ta thường đấu tranh không ngừng nghỉ, chỉ để thua cuộc và trở nên cay đắng và đau khổ vì chúng nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Epictetus mang đến sự tự do cho mỗi người chúng ta: ông nói, hãy tự mình xác định điều gì là của bạn và điều gì nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn, sau đó chỉ làm việc và quan tâm đến những thứ thuộc về bạn, và bạn sẽ luôn được tự do. Những gì thuộc về chúng ta? Tâm trí, suy nghĩ, hành động, sự theo đuổi trí tuệ của chúng ta. Nếu chúng ta vun đắp những điều đó, không ai có thể tước đi sự tự do của chúng ta.
Không có cuốn sách nào định hình cuộc đời tôi nhiều hơn cuốn On the Shortness of Life (Về sự ngắn ngủi của cuộc đời) của Seneca. Tôi tin tưởng hết lòng rằng đây là tác phẩm vĩ đại nhất từng được viết ra, và không có cách nào tôi có thể công bằng cho nó ngoại trừ việc khuyến khích mọi người tôi biết đọc nó. Đó là câu trả lời cho câu hỏi chúng ta nên sống cuộc sống của mình như thế nào, một lời kêu gọi mạnh mẽ để dành những ngày của chúng ta cho những điều thực sự quan trọng. Tôi đã suy ngẫm về cuốn sách này và học hỏi từ nó trong một thời gian dài đến nỗi Seneca đã trở thành người bạn thân thiết nhất và người cố vấn thông thái nhất của tôi. Ông đã làm cho tôi những gì Zeno, Pythagoras, Democritus và Aristotle đã làm cho ông: ông không ép tôi phải chết mà đã dạy tôi cách chết, ông không làm cạn kiệt những năm tháng của tôi mà đã đóng góp những năm tháng của ông cho tôi, và ông chưa bao giờ để tôi ra về tay không.
— Susan Fowler
Susan Fowler là một hình mẫu tuyệt vời cho người muốn sống theo triết lý khắc kỷ, làm chủ đời mình. Chủ nghĩa khắc kỷ hiện đại chắc chắn cần nhiều role model như thế, đặc biệt trong giới phụ nữ. Hollywood dự định làm một phim về Susan Fowler.
Albert Einstein phần nào là một người khắc kỷ không? Tôi tin là có. Mọi người biết, ông quan tâm đến vật lý, nghiên cứu và có những khám phá cách mạng về sự vận hành của vũ trụ, dĩ nhiên ông sống hàng ngày với nó. Ông có logic để hiểu thế giới và dấn thân cho nó. Ông thích cuộc sống thanh đạm về vật chất, và xem thường danh vọng. Ông học không phải để ganh đua, việc nghiên cứu khoa học cũng thế. Ông nghiên cưu vì óc tò mò. Nền tảng giáo dục tổng quát của ông rất rộng và mang tính nhân bản. Chắc chắn, ông là một người khắc kỷ, lại xông pha dấn thân cho sự bình yên và tiến bộ của thế giới, một người khắc kỷ hiện đại.
Marcus Aurelius
Trong tập (Book) 1 của Suy ngẫm, tại những dòng đầu hết, Marcus Aurelius viết như sau về nguồn gốc dưỡng dục tinh thần và tính cách của mình:
I. Từ ông nội (Verus), tôi đã học được cách cư xử dịu dàng và nhu mì, và kiềm chế mọi cơn giận dữ và đam mê. Từ danh tiếng và ký ức về người đã sinh ra tôi, tôi đã học được cả sự khiêm tốn và cách cư xử của một người đàn ông. Từ mẹ tôi, tôi đã học được tính sùng đạo và rộng lượng; và phải kiềm chế không những hành động mà còn ý định làm điều xấu; hài lòng với chế độ ăn uống thanh đạm và tránh xa mọi thứ xa xỉ của sự giàu có lớn. Về ông cố của tôi, người đều thường xuyên đến trường công và các giảng đường, và cũng để tìm cho tôi những giáo viên giỏi và có năng lực tại nhà; và tôi không nên suy nghĩ nhiều nếu trong những trường hợp như vậy tôi phải trả giá quá cao.
Một bức tranh thật đẹp về giáo dục mà gia đình ông đã để lại như di sản cho ông làm vốn vào đời.
Ở trang tiếp, mời độc giả xem bài viết của Nguyễn Lương Việt và Nguyễn Lương Dũng nói về vị Hoàng đế minh triết khắc kỷ Marcus Aurelius:
https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/marcus-aurelius-hoang-de-triet-gia-la-ma/
Nguyễn Xuân Xanh