Nghệ thuật Thời kỳ Edo Nhật Bản (1615-1868)

by , under Uncategorized

NGHỆ THUẬT THỜI KỲ EDO NHẬT BẢN (1615–1868)

Nguyễn Xuân Xanh trình bày

Nói nghệ thuật thời Edo là quá lớn. Ở đây tôi chỉ giới hạn vào mảng hội họa, chủ yếu sưu tầm và đưa ra 22+1 bức tranh khắc gỗ thời Edo, và một ít lời chú thích. Nhưng xem số tranh này dù ích ỏi người đọc sẽ cảm nhận được tính sáng tạo của người Nhật. Nhật Bản có truyền thống nghệ thuật rất lâu đời, nhưng trong những điều kiện chính trị lịch sử nhất định, đặc biêt sau khi đất nước được thống nhất, hòa bình, nghệ thuật đã phát triển có tính bùng phát. Đó là thời kỳ Edo. Muốn cảm nhận được óc sáng tạo, sự phong phú của óc tưởng tượng và năng lực thực hiện của một dân tộc, hãy nhìn lãnh vực nghệ thuật của họ.

Nghệ thuật là sự thể hiện năng lực tư duy, óc tưởng tượng, sáng tạo và thẩm mỹ của một dân tộc. Nhật Bản là một quốc gia nhỏ ở Đông Á có năng lực nghệ thuật to lớn, độc đáo đáng ngưỡng mộ. Tranh thời kỳ Edo có nhiều phong cách và chủ đề đa dạng, phản ánh thị hiếu thay đổi theo cuộc sống mới. Các nghệ sĩ khám phá chủ đề về thiên nhiên, cuộc sống đô thị và văn hóa đại chúng, tạo ra các tác phẩm mang tính biểu tượng như tranh khắc gỗ ukiyo-e.

Các tác phẩm mang tính biểu tượng: Sóng lớn ngoài khơi Kanagawa của Katsushika Hokusai hay Cơn mưa bất chợt trên cầu của Utagawa Hiroshige và các bản in ukiyo-e khác đã trở thành biểu tượng của thời kỳ Edo và vẫn được ngưỡng mộ cho đến ngày nay. Loại tranh này là “tranh về thế giới phù du” (floating hay có lẽ fleeting world), trôi nổi, nhất thời, nhưng sau bốn trăm năm chúng vẫn còn giá trị như những báu vật tinh thần của dân tộc Nhật.

Sau khi các cảng của Nhật Bản mở cửa trở lại để giao thương với phương Tây vào năm 1853, một làn sóng hàng nhập khẩu Nhật Bản đã tràn vào châu Âu. Đỉnh cao của làn sóng đó là các bản in khắc gỗ của các bậc thầy thuộc trường phái ukiyo-e, những người đã biến đổi nghệ thuật Ấn tượng và Hậu ấn tượng châu Âu bằng cách chứng minh rằng các chủ đề đơn giản, thoáng qua, hàng ngày từ “thế giới phù du” (hay thế giới trôi nổi) có thể được trình bày theo những cách trang trí hấp dẫn. “Thế giới phù du” (ukiyo trong tiếng Nhật) ám chỉ bản chất chóng vánh của cuộc sống, một khái niệm trung tâm của văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kỳ Edo (1603-1868). Ukiyo-e, hay “tranh thế giới phù du”, là một loại hình nghệ thuật thể hiện ý tưởng này, nắm bắt vẻ đẹp phù du và thú vui của cuộc sống đô thị, đặc biệt là ở các khu vui chơi của các thành phố như Edo (Tokyo ngày nay).

Người dân Paris đã chứng kiến ​​triển lãm chính thức đầu tiên về nghệ thuật và thủ công Nhật Bản khi Nhật Bản chiếm một gian hàng tại Hội chợ Thế giới năm 1867. Nhưng ngay lúc đó, hàng loạt tàu chở đồ trang trí phương Đông—bao gồm quạt, kimono, sơn mài, đồ đồng và lụa—đã bắt đầu đổ vào Anh và Pháp. Từ đó có cái tên Japonisme, thuật ngữ của Pháp mô tả ảnh hưởng của nghệ thuật và văn hóa Nhật Bản đối với nghệ thuật, thiết kế và văn hóa phương Tây, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nó đề cập đến sự hấp dẫn và sự kết hợp của các hình thức nghệ thuật, thẩm mỹ và họa tiết của Nhật Bản vào tác phẩm sáng tạo của phương Tây. Van Gogh và người em ông, Theo, rất mê tranh khắc gỗ Nhật Bản. Viện bảo tàng Van Gogh còn lưu giữ một sưu tập khoảng 500 bức tranh của Nhật Bản.

Dưới đây là hình ảnh một số tác phẩm trong thời Edo là thời gian tỏa quốc (đóng cửa) nhưng sức sáng tạo nghệ thuật phát triển bùng nổ không thể tưởng tượng hết. Trang này không phải là nghiên cứu Nghệ thuật thời Edo mà chỉ để minh họa những gì tôi đã nói trong bài giới thiệu tác phẩm Hồi ức đến Tương lai của Trần Văn Thọ.

Một dịp khác tôi sẽ có phần nghiên cứu nhiều hơn Nhưng một điều rõ ràng: Người Nhật rất yêu nghệ thuật, có con mắt quan sát chính xác, và thể hiện các quan sát một cách chính xác và mỹ thuật. Xin xem thêm phần Lời bạt thêm ở dưới.

Under the Wave off Kanagawa (Kanagawa oki nami ura), also known as The Great Wave, from the series Thirty-six Views of Mount Fuji (Fugaku sanjūrokkei), Katsushika Hokusai Japanese, Woodblock print; ink and color on paper, Japan

Dưới con sóng ngoài khơi Kanagawa (Kanagawa oki nami ura), còn được gọi là Sóng lớn, cuối năm 1831, trong loạt tranh Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ (Fugaku sanjūrokkei) của họa sĩ Katsushika Hokusai (1760 – 1849) gọi đơn giản là Hokusai. Ông là một nghệ sĩ ukiyo-e người Nhật Bản thời kỳ Edo, hoạt động như một họa sĩ và thợ in. Bộ tranh khắc gỗ Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ của ông bao gồm bản in mang tính biểu tượng Sóng lớn ngoài khơi Kanagawa. Hokusai đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ukiyo-e từ một phong cách vẽ chân dung chủ yếu tập trung vào kỹ nữ và diễn viên thành một phong cách nghệ thuật rộng hơn nhiều tập trung vào phong cảnh, thực vật và động vật. Các tác phẩm của ông có ảnh hưởng đáng kể đến Vincent van Gogh và Claude Monet trong làn sóng Japonisme lan rộng khắp châu Âu vào cuối thế kỷ 19.

 

Tuyết buổi tối ở Kanbara, từ loạt tranh “Năm mươi ba tram của (con đường) Tōkaidō” của Utagawa Hiroshige. Tōkaidō là con đường hành lang nối Tokyo và Osaka, với các điểm dừng chính bao gồm Nagoya và Kyoto. Nó cũng kết nối với các thành phố quan trọng khác như Yokohama, Shizuoka và Kobe. Tuyến đường này là hành lang giao thông đông đúc nhất ở Nhật Bản, kết nối thủ đô và các thành phố lớn dọc theo bờ biển Thái Bình Dương.

 

Thời tiết quang đãng ở Shibaura của Utagawa Hiroshige

Mưa to gió lớn (Driving rain) ở Shōno, của Andō (Utagawa) Hiroshige, khoảng 1833-1834. Lưu trữ tại Metropolitan Museum of Art, New York

 

Cơn mưa bất chợt trên cầu của Utagawa Hiroshige, được xuất bản vào năm 1857 như một phần của bộ Một trăm cảnh đẹp nổi tiếng của Edo và là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.

 

Vườn mận của Utagawa, Hiroshige, cuối năm 1857. Bức tranh này, cũng như bức Cơn mưa bất chợt trên cầu đặc biệt vì nó được Van Gogh ưa thích và vẻ lại.

Vườn Diên Vĩ (Iris) ở Horikiri, Hiroshige, 1857

Vườn Mận ở Kamada trong Một Trăm Cảnh Đẹp Nổi Tiếng của Edo, Hiroshige, 1857

Tuyết trên đồi Atagoyama và con đường Yabu, một cảnh trong Một trăm cảnh đẹp nổi tiếng của Edo, Hiroshige, 1857

Một Trăm Chàng Trai của Kano Einō

Tấm bình phong hoa Iris của Ogata Kōrin (1658-1716), một bậc thầy thời Edo. Những bức bình phong này được lưu giữ trong hơn 200 năm tại chùa Phật giáo Nishi Honganji ở Kyoto. Hiện chúng được Bảo tàng Nezu lưu giữ và là Bảo vật quốc gia của Nhật Bản. Một cặp bình phong tương tự do Ogata Kōrin sáng tác nhiều năm sau đó, mô tả hoa diên vĩ được Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở Thành phố New York lưu giữ. Cả bốn bình phong hoa diên vĩ đều được trưng bày cùng nhau lần đầu tiên vào năm 2012 tại triển lãm “Korin: Bảo vật quốc gia Hoa diên vĩ của Bảo tàng Nezu và Tám cây cầu của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan” tại Bảo tàng Nezu.

Đàn sếu đầu đỏ của Ogata Kōrin, thực hiện cuối thế kỷ 17.

Sóng ở bờ biển Matsushima, của Ogata Kōrin, đầu thế kỷ 18.

Sóng cồn (rough waves) của Ogato Kōrin, thực hiện khoảng năm 1704–09; tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, Thành phố New York.

Những cây mận đỏ và trắng của Otaga Kōrin, đầu thế kỷ mười tám

The Narrow Road to the Deep North (Con đường hẹp dẫn tới miền Bắc xa xôi). Mô tả cảnh thiền sư Bashō và người bầu bạn trẻ của ông thực hiện cuộc hành trình. Phần text là trích từ Bashō. Tranh của Yosa Buson (1716-83). Viện bảo tàng quốc gia Kyoto. Buson là học trò của một đệ tử của Bashō, là một trong những người vẽ lại lộ trình của Bashō và sau đó tạo ra nhiều bức tranh được truyền cảm hứng từ đó. Tranh được thực hiện trên những cuộn giấy (handscroll) dài đặc biệt phù hợp với chủ đề này vì nó cho phép người xem tái hiện trong trí tưởng tượng của họ sự trôi qua của thời gian và không gian của cuộc hành trình nguyên thủy của nhà thơ.

Ba mươi sáu nhà thơ bất tử. Được cho là của Sakai Hōitsu, được lưu giữ tại Freer Gallery of Art, Smithsonian Institution, Washington, D.C.

Phong cảnh dưới ánh trăng của Kanō Tan’yū (một trong ba cuộn tranh treo, mực trên lụa)

Bên trong một nhà chứa (brothel), vô danh

 

Nơi giặc đồ công cộng (Torii Kiyonaga (1752-1815)

Cảnh năm mới: Phụ nữ họp mặt trên cầu Nihonbashi, của Torii Kiyonaga. 1786. Học viện Nghệ thuật Honolulu. Quà tặng của James A. Michener. 1991 (21.801).

Thêm một số tranh của Hokusai. Katsushika Hokusai là một nghệ sĩ, họa sĩ ukiyo-e và nhà in ấn tài ba, nổi tiếng nhất với loạt tranh khắc gỗ Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ, trong đó có các bản in Dưới con sóng ngoài khơi Kanagawa Gió nhẹ, buổi sáng trong xanh ở Phú Sĩ rất nổi tiếng. Hokusai có ảnh hưởng đến phong cách Art Nouveau ở châu Âu, bao gồm Claude Monet và Pierre-Auguste Renoir. Dưới đây là thêm vài bức ảnh của ông:

 

Gió nhẹ, buổi sáng trong xanh ở Phú Sĩ còn được gọi là Red Fuji là một bản in khắc gỗ của Hokusai trong bộ Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ của ông, có niên đại từ khoảng năm 1830 đến năm 1832. Tác phẩm này được mô tả là “một trong những tác phẩm đơn giản nhất và đồng thời là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong tất cả các tác phẩm in của Nhật Bản”.

Câu cá dưới sông Fuji cuồn cuộn chảy ở tỉnh Kajikazawa xa xa là núi Phú Sĩ, một trong Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ được xuất bản từ khoảng năm 1830 đến năm 1832 vào cuối thời kỳ Edo.

Pháo hoa trong buổi tối mát mẻ tại cầu Ryogoku ở Edo, bản in, khoảng năm 1788–89

Cảnh quan cũ của cầu thuyền ở Sano thuộc tỉnh Kōzuke (Kōzuke Sano funabashi no kozu), trích từ loạt ảnh Cảnh quan đáng chú ý của những cây cầu ở nhiều tỉnh khác nhau (Shokoku meikyō kiran) (khoảng 1830)

Tĩnh vật

Chim diệc từ Những bài học nhanh về Bản hình giản hóa (1823)

 

Ngoài ra chúng ta hãy xem vài bức tranh của một họa sĩ hiện đại thế kỷ XX

Hoa anh đào rũ nở của họa sĩ  Namiki Hajime (1947-)

 

Sư khất thực (Yorobōshi, beggar monk) giữa rừng hoa anh đào (Cảnh trong vở kịch Noh). Tranh của Shimomura Kanzan (1873 –1930, Tokyo), 1915. Hai tấm trên gắn liền nhau trong một bộ 6 tấm. Tokyo National Museum.

Lời bạt

Xét theo ý kiến của những người mà chúng tôi đã gặp, tôi cho rằng người Nhật là chủng tộc tốt nhất từng được phát hiện và tôi không nghĩ bạn sẽ tìm thấy một dân tộc tương tự trong số những dân tộc ngoại giáo.

—Francis Xavier (1506 – 52) nhà truyền giáo

 

Dưới đây là một phát họa ngắn về nền tảng cho sự phát triển nghệ thuật thời Tokugawa. Sau khi thống nhất đất nước của gần 200 han, năm 1603 Ieyasu (1543-1616), shogun đầu tiên của Tokugawa, đã quyết định chọn Edo (nay là Tokyo) làm đại bản doanh hành chánh, chính trị của Mạc Phủ Tokugawa. Lúc đó Edo chẳng khác gì một chỗ đồn trú quân bao quanh một lâu đài. Thế rồi, vào đầu thế kỷ thứ mười tám, tức sau một trăm năm, vùng đất hẻo lánh này đã trở thành một megacity có dân số lên tới một triệu người, là thành phố lớn nhất thế giới, trong khi dân số Nhật Bản ở thế kỷ XVII chỉ khoảng 30 triệu.  Sự tăng trưởng nhanh chóng này có ảnh hưởng to lớn lên sự phát triển văn hóa, nghệ thuật của Nhật Bản trong thời kỳ bế quan tỏa cảng. Edo cũng tự hào có một nền văn hóa sôi động sánh ngang với Kyoto, nơi ở của hoàng đế và triều đình, cũng là trái tim văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Sự phát triển ở Kyoto và Edo phần lớn sẽ quyết định về sự định hình các phương thức biểu đạt thị giác chủ đạo của thời kỳ Edo.

Văn hóa phát triển ngay trong lòng giai cấp chiến binh. Nhiệm vụ kép cho giai cấp cầm quyền là “tay trái quyển sách (bun), tay phải lưỡi kiếm (bu). Nghệ thuật chiến tranh được chuyển sang nghệ thuật hòa bình, nhấn mạnh vào các hoạt động văn hóa ở tất cả loại hình. Sự bảo trợ và thực hành nghệ thuật không chỉ là nghề nghiệp cá nhân mà còn là trọng tâm để thể hiện và phô trương quyền lực của giai cấp thống trị.

Thời kỳ Edo chứng kiến sự nở rộ của một nền văn hóa đô thị vô cùng phong phú và độc đáo. Sự nở rộ này là kết quả của cả quá trình chuyển đổi sáng tạo trong xã hội và sự thương mại hóa các hình thức văn hóa trước đây gắn liền với giới quý tộc và chiến binh tinh hoa, cũng như từ những phát triển mới, nhiều phần trong số đó là kết quả của các sự kích thích từ các tỉnh và nước ngoài (Trung Quốc, châu Âu qua ngõ Hà Lan). Rồi sự phát triển dần dần thoát ra khỏi sự phân chia giai cấp. Trong thời kỳ Edo, sự phát triển phi thường của các trung tâm đô thị với mật độ lớn, người dân của các thị trấn giàu có (chōnin) đã thách thức những nỗ lực của giới tinh hoa cầm quyền về quyền kiểm soát tập trung đối với sản xuất nghệ thuật. Quyền lực kinh tế của giai cấp tư sản đang lên mạnh mẽ, đặc biệt là ở Edo, Kyoto và Osaka, không chỉ làm suy yếu quyền bá chủ nghệ thuật của chế độ Mạc phủ mà còn góp phần tạo nên sự đa nguyên nghệ thuật (artistic pluralism).

Thành tựu nghệ thuật, như âm nhạc, hội họa, thư pháp và nghệ thuật sân khấu là dấu hiệu của sự tu dưỡng cá nhân được đánh giá cao ở mọi cấp độ của xã hội Edo ngày càng có trình độ học vấn cao, thu hút nam giới lẫn phụ nữ ở mọi tầng lớp. Đặc biệt là giới rangaku (Lan học).

Quang cảnh khu vườn Rikugien, Tokyo. Được thành lập 1699-1706.
Sở Hiệp hội Công viên đô thị Tokyo.

Trong khi nhà nước Mạc phủ có thể kiểm soát các chủ đề và phong cách nghệ thuật chính thức thông qua sự bảo trợ của mìn

h, thì họ không thể áp đặt chuẩn mực về thị hiếu vào các thương gia, nghệ nhân và nông dân, hoặc thậm chí là chư hầu phong kiến ​​của mình. Các đại diện chính trị của Mạc phủ không thể bỏ qua chuẩn mực chính thức trong việc trang trí nơi ở của họ, nhưng họ cũng có thể theo đuổi sở thích và mối quan tâm cá nhân của mình để thưởng thức riêng. Do đó, nhiều nghệ sĩ sáng tạo đã thể hiện bản thân theo những cách không được chính thức chấp thuận.

Ngoài sự phồn vinh mà các trung tâm Kyoto, Edo, Osaka và Nagasaki mang đến cho cư dân của họ, cũng như các hoạt động văn hóa vô cùng phong phú, thì Mạc phủ xây dựng mạng lưới đường bộ và đường thủy trên toàn quốc đảm bảo được dòng chảy văn hóa ổn giữa các thành phố này.

Trong thời kỳ Edo, có thể nói rằng Nhật Bản là một quốc gia của những con người luôn luôn di chuyển. Các lãnh chúa phong kiến và đoàn tùy tùng của họ thường xuyên di chuyển giữa Edo và các tỉnh quê hương, góp phần vào dòng chảy ảnh hưởng nghệ thuật giữa các vùng. Tùy thuộc vào quy mô và sản lượng của các thái ấp, đôi khi một đoàn diễu hành như vậy có thể lên tới hai mươi nghìn người, đôi khi có cả nghệ sĩ trong số họ. Người ta cho rằng Hiroshige đã đi cùng một nhóm như vậy để thực hiện các bản vẽ sơ bộ cho Năm mươi ba trạm của Đường Tōkaidō của mình, nhiều bức trong số đó cho thấy các thành viên của đoàn tùy tùng daimyo. Ngoài những lữ khách chính thức như vậy, các con đường còn chật kín thương nhân và người bán hàng rong, những người hành hương và khách du lịch.

Hầu hết mọi người đều đi bộ. Đi bằng ngựa rất tốn kém, và ngựa chủ yếu dùng để chở hành lý quá nặng đối với người khuân vác. Kiệu thì dành cho giới tinh hoa phong kiến và quý tộc.

Để giữ quyền bá chủ chính trị và kinh tế của mình, chính quyền Tokugawa đã duy trì một hệ thống Năm xa lộ, Tōkaidō, Kisokaidō hoặc Nakasendō, Kōshūdō, Nikkōdō và Oshūdō, mỗi xa lộ đều có nhiều thị trấn bưu điện chính thức. Tōkaidō, con đường ven biển dài 351 dặm (560 km) từ Edo đến Kyoto có lưu lượng giao thông đông đúc nhất, nhưng Kisokaidō nội địa cũng được đi lại nhiều. Để thúc đẩy thương mại và truyền thông ở những khu vực mà giao thông đường bộ khó khăn, chính quyền cũng đã phát triển một hệ thống vận tải biển quốc gia. Tuyến đường vận chuyển phía tây kéo dài từ Matsumae, tiền đồn phía bắc của Nhật Bản trên đảo Hokkaidō, xuống bờ biển Nhật Bản, qua eo biển Shimonoseki và dọc theo Biển Nội địa đến Osaka. Ngoài ra còn có các tuyến đường ngắn hơn dọc theo bờ biển phía đông, bao gồm một tuyến vận tải và buôn bán giữa Osaka và Edo. Việc di chuyển liên tục dọc theo những con đường và tuyến đường thủy này cùng các tuyến đường bộ và đường thủy nhỏ hơn có tác dụng nối liền các đô thị của quốc gia với các thị trấn lâu đài, trạm đường cao tốc và thị trấn chợ, trung tâm tôn giáo, cảng biển và làng nông nghiệp trên khắp quần đảo. Nói chung, cơ sở hạ tầng để phát triển thương mại, du lịch và văn hóa là hoàn hảo.

∗∗∗∗

NHỮNG CÂU HỎI

Mỗi lần xem tranh Nhật Bản, tôi tự hỏi, sao họ có óc tưởng tượng phong phúóc quan sát tinh tế như thế? Tâm hồn họ thể nào mà họ có những sản phẩm nghệ sĩ tuyệt vời như thế? Phương Tây rất mê và nghiên cứu tranh của họ. Tại sao người Việt không được một phần như vậy? Lý do tại sao? Chúng ta có những áng văn tuyệt tác, đứng đầu là truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng không có những tác phẩm hội họa lớn nào mô tả con người, cảnh vật và đời sống. Xin xem một vài gợi ý trong bài viết của tôi năm 2019: Leonardo da Vinci 500. Chỗ yếu nào của xã hội, tâm lý, giáo dục, hoàn cảnh hay triết lý sống đã ngăn cản sự phát triển đó? Đất nước Nhật là rất đẹp, với núi rừng biển cả, có thể là nguồn cảm hứng. Einstein rất khen ngợi. Nhưng đất nước Việt Nam cũng có rất nhiều cảnh rất đẹp đủ để truyền cảm hứng chứ. Việt Nam không có một thời kỳ phát triển kinh tế để có một giai cấp gọi là “tư sản”, và một giới artisan, nghệ nhân, như Nhật Bản thời Edo chăng? Hiện tại Việt Nam đang có một lớp “tư sản” giàu có, trên trung lưu, và một số nghệ nhân “tự phát”, vẽ tranh hay điêu khắc, nhưng chỉ mới bắt đầu, và còn quá mới. Bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan vẻ lên một bức tranh rất đẹp, ai cũng thích, nhưng chưa có một họa sĩ nào thể hiện nó trên canvas hay bằng tranh khắc gỗ.

Người Việt phải chăng do nghèo, thiếu giai đoạn phồn vinh “tư sản” mà đã không có thú vui về vật chất, kéo theo nghệ thuật tranh không phát triển vì không có thị trường? Phải chăng, Nho giáo đã làm cho con người tập trung cảm xúc mình vào thi phú chữ nghĩa? Đời sống thế tục không được quan tâm? Nhưng Nhật Bản là dân tộc vừa thích cuộc sống thế tục, hưởng thụ, đồng thời cũng là dân tộc phát triển Zen và nghệ thuật thiền rất đặc sắc, như trà đạo, nghệ thuật cắm hoa. 

Từ đầu thế kỷ XX, Việt Nam có một số họa sĩ tương đối nổi tiếng, như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái … nhưng nhìn chung chưa có bứt phá. Tôi không tin rằng người Việt Nam thiếu khiếu vẽ. Đúng hơn, thiếu một động cơ, chất xúc tác gì đó. Mặt khác, tại sao động cơ văn chương, thơ phú của người Việt khá mạnh nếu không muốn nói là quá mạnh? Đó có phải là mặt trái, hay một phần, của cùng vấn đế tại sao Việt Nam không có hội họa? Đâu là nguồn cội của sự lạc hậu của Việt Nam trên nhiều lãnh vực? Sự lạc hậu ấy kéo dài cho tới hôm nay. Phải chăng những lý do của nó vẫn chưa được nhận thức và vì thế xã hội chưa có hành động cải thiện?

 

Nguyễn Xuân Xanh

 

Tham khảo

Christine Guth, Art of Edo Japan.The Artist and the City 1615-1868. Yale University Press, 1996.

Paul Varley, Japanese Culture. Fourth Edition. University of Hawai’i Press, Honolulu, 2000.

Sarah E. Thompson, Hokusai. With an essay by Joan Wright and Philip Meredith. MFA Publication. Museum of Fine Arts, Boston, 2015.

Hiroshige, One Hundred Famous Views of Edo. Multilingual. Bibliotheca Universalis. 2015.

Penelope Mason, History of Japanese Art. Second Edition. Revised by Donald Dinwiddie. Pearson Prentice Hall, 2005.

Tsuneko S. Sadao and Stephanie Wada, Discovering the Arts of Japan: A Historical Overview. Kodansha International, 2003.